“Miệng con ca hát khôn nguôi,
Ngợi ca Danh Chúa muôn đời chẳng phai.”
CUỘC ĐỜI THÁNH PHỤ ĐAMINH
= = =
KINH CẦU THÁNH ĐA MINH (kinh cũ)
Ở sự trông cậy lạ lùng, Cha đã ban cho những kẻ thương khóc Cha đang lúc mong sinh thì, vì bấy giờ Cha đã hứa sau khi qua đời, Cha sẽ làm ích cho các anh em.
Lạy Cha xin hãy giữ lời đã trối mà cầu giúp chúng con. Cha đã giãi sáng ra vì làm nhiều phép lạ dường ấy mà chữa đã những kẻ phải liệt phần xác, thì xin Cha phù giúp chúng con cho được ơn Chúa Kitô mà chữa đã tật nguyền linh hồn chúng con.
Lạy Cha xin hãy giữ lời đã trối mà cầu giúp chúng con. Sáng danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Lạy Cha xin hãy giữ lời đã trối và cầu giúp chúng con. Lạy Thánh cha Đaminh xin cầu cho chúng con, đáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa.
(Lời nguyện): Lạy Chúa là Đấng đã đoái thương soi sáng Hội thánh Chúa bởi công nghiệp cùng những lời dạy dỗ của Thánh Đaminh là hiển tu Chúa và là Cha chúng con thì xin Chúa vì lời người cầu bầu mà ban cho Hội thánh được sự phù hộ đời này và hằng tấn tới thêm nhiều ích lợi thiêng liêng, vì Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
= = = = = o0o = = = = =
KINH CẦU XIN THÁNH ĐAMINH (kinh mới)
Lạy Cha Thánh Đaminh, là tổ phụ chúng con, là người thấm nhuần Tin Mừng, là người nhiệt thành cầu nguyện, và hăng say hoạt động tông đồ. Xin Cha nhìn đến gia đình của Cha, gia đình đã được kêu gọi, để cùng với Cha theo Chúa Kitô, để hiến thân phục vu Chúa, trong tinh thần thanh bần và huynh đệ. Chúng con đây là con cái Cha, chúng con kêu lên Cha. Ôi lạy Cha là niềm hy vọng của chúng con Chúng con, xin Cha thương trợ giúp, biến chúng con nên những người, thừa kế đời sống và sứ vụ của Cha.
Xin dạy chúng con biết sống Tin Mừng trọn vẹn.
Đó là câu trả lời cho một thế giới đang tìm kiếm và thách thức. Ôi lạy Cha, Ước chi gương sáng của Cha thúc đẩy chúng con, Ước chi chân lý luôn soi sáng khi chúng con cầu kinh và học hành. Và ước chi cả hai, gương sáng và chân lý, thúc đẩy cho chúng con thông truyền cho tha nhân điều chúng con đã chiêm niệm và đã sống.
Xin làm cho chúng con được nên giống như Cha: biết ngoan ngoãn vâng theo Chúa ThánhThần, tin tưởng phó thác vào ơn quan phòng của Cha trên trời, bền chí trong chiêm niệm và trong lời giảng, hợp thời đúng lúc khi dạy dỗ, quảng đại để sẵn sàng phục vụ, can đảm để dám dấn thân, cảm tạ khi được vui tươi, hy vọng lúc gặp đau khổ, kiên trì khi nản chí, chân thành khi sống với anh em.
Lạy Cha Thánh Đaminh ! Xin đem cho chúng con nhiều ơn gọi mới, để tiếp tục công trình: Nói với Thiên Chúa và nói về Thiên Chúa. Như thế, điều chính Cha đã hứa với chúng con nay được hoàn tất, hầu tôn vinh Chân lý tuyệt vời, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
= = = = = o0o = = = = =
TUẦN CỬU NHẬT KÍNH THÁNH ĐAMINH
Ôi ánh sáng rạng soi Giáo hội,
Thầy chân lý mở lối soi đường,
Hồng thiêng nhẫn nại toả hương,
Ngọc ngà khiết tịnh nêu gương tinh ròng.
Nước khôn ngoan thác dòng tuôn chảy,
Cha đã ban đầy dẫy nhưng không,
Giảng truyền ơn Chúa chí công
Cho con hiệp với cộng đoàn phúc nhân.
= = = // = = =
Tuần cửu nhật kính thánh Đaminh
Ngày thứ 1:
Lạy cha thánh Đa Minh, nhờ ánh sáng của ơn Chúa, cha đã khiêm nhường đến nỗi coi mình như là kẻ bất xứng nhất và tội nhân tồi tệ nhất. Cha đã kiên trì trong đức tin đến độ ước ao được tử đạo và đã được Chúa ban những điều cha khẩn cầu. Xin cha cầu cho chúng con được tâm hồn khiêm tốn sâu xa và đức tin sống động. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 2
Lạy thánh Đa Minh, Cha đã duy trì lòng thanh sạch từ khi lãnh bí tích rửa tội, và hằng duy trì tinh thần thống hối để kêu xin Chúa thứ tha cho những người tội lỗi. Xin cha cầu cho chúng con được ơn tha thứ những lỗi lầm của mình và tinh thần đền tội. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 3
Lạy thánh Đa Minh, cha chỉ nói với Chúa hay nói về Chúa; tất cả hoạt động của cha đều nhằm vinh danh Thiên Chúa. Xin Cha cầu cho chúng con được tinh thần cầu nguyện, kết hiệp chặt chẽ với Chúa, và đức ái nhiệt thành để nung nấu và thánh hoá cuộc đời của chúng con. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 4
Lạy thánh Đa Minh, nhờ suy niệm Phúc Âm, cha đã cháy lửa nhiệt thành làm việc tông đồ. Cha đã không quản ngại những nhọc nhằn nguy hiểm trong việc đưa các linh hồn về với Chúa. Xin Cha cầu cho chúng con được ơn can đảm tuyên xưng đức tin bằng lời nói và việc làm. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 5
Lạy thánh Đa Minh, theo gương vị Tông đồ của Dân ngoại, cha đã không chiều theo cảm tính tự nhiên. Cha hân hoan khi thiếu thốn những điều cần thiết, khi bị sỉ nhục và khi bị doạ giết, nhờ đó cha đã nên giống Đức Kitô chịu đóng đinh. Xin cha cầu cho chúng con tinh thần kiên nhẫn và lòng mạnh mẽ. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 6
Lạy thánh Đa Minh, cha đã sống nhiệm nhặt với chính mình, nhưng đã kín múc được tinh thần hiền hoà từ trái tim của Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cha đã cảm thông với mọi nỗi lầm than, cha đã mang tình thương của Chúa đến với những người đau khổ và an ủi họ bằng đức tin và lòng mến. Xin cha cầu cho chúng con biết cảm thông với tha nhân và trở nên tất cả cho mọi người để dẫn đưa họ về với Chúa. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 7
Lạy thánh Đa Minh, do lòng hăng say tông đồ thúc đẩy và nghĩ đến những cuộc chống đối với chân lý và Hội thánh, cha đã muốn thiết lập một gia đình những người làm Tông đồ để tiếp nối công trình của cha. Xin cầu cho con cái cha được bước theo tấm gương quảng đại của cha, và ban cho tất cả các tín hữu được tinh thần phục vụ chân lý và Hội Thánh. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 8
Lạy thánh Đa Minh, cha đã uỷ thác cho Dòng của cha sứ mạng cứu rỗi các linh hồn. Khi trao cho con cái khí giới mạnh mẽ là kinh Mân Côi, cha đã truyền thụ cho họ lòng thảo hiếu đối với Mẹ Maria. Xin cha chuyển cầu cùng Đức Mẹ Maria cho các con cái của cha để họ được trở nên những tông đồ theo như lòng Người ao ước. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Ngày thứ 9
Lạy thánh Đa Minh, cha đã muốn cho gia đình của cha được nổi bật về chân lý : yêu thích sống và truyền bá chân lý nhờ đời sống thánh thiện và đạo lý uyên thâm. Xin cha cầu cho chúng con được lớn lên trong lòng mộ mến chân lý; xin cho chúng con biết luôn luôn múc lấy nguồn mạch sự sống nơi bí tích Thánh Thể, và nhờ đó cùng với cha, chúng con đạt tới sự sống trường sinh. Amen.
Kinh Sáng danh/ kinh Thánh Đaminh/ 3 kinh kính mừng/ Kinh Lạy Nữ Vương.
Lời nguyện kính thánh Đaminh
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội thánh một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa Minh. Xin nhờ lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu mà ban cho Hội Thánh luôn tiến triển nhờ công đức và lời giảng dạy của người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
http://www.memaria.org/?LangID=38&ArticleID=52127
THÁNH ĐA MINH MẪU GƯƠNG HỌC HÀNH
= = =
Trong cuộc đời 51 năm sống ở trần gian của thánh Đa Minh, thời gian dành riêng cho việc học chiếm suýt soát 20 năm: 7 năm học ở nhà ông cậu, 10 năm học ở đại học Palencia, 3 năm ở Kinh sĩ Hội Osma. Đó là chưa kể trong thời gian Ngài mới thu nhận một số anh em, chính Ngài cùng với 6 môn sinh tiên khởi của Dòng đã đến học với giáo sư Alexandre Stavenby tại trường học nhà thờ chính tòa Toulouse; và trong suốt những năm hăng hái hoạt động, Ngài vẫn học hỏi, học hỏi với Chúa trong khi cầu nguyện, học hỏi trong Sách Thánh, học hỏi trong cuộc đời, học những điều hay của anh em lạc giáo và học biết những đau khổ của con người.
Thực sự thánh Đa Minh đã sống tinh thần học hỏi trong suốt cuộc đời và ngài đã để lại tinh thần đó cho Dòng. Các văn kiện chính thức của Giáo Hội cũng như của Dòng đã làm chứng điều đó một cách rõ ràng; chẳng hạn, thư Đức Hônôriô III viết cho thánh Đa Minh và anh em: "Thiên Chúa ... đã gợi cho chúng con một cảm nghĩ đạo đức là chuyên tâm tìm hiểu chân lý".
Hiến Pháp thời đầu của Dòng có đoạn viết: "Học hỏi chân lý thánh là một phương pháp chính yếu cho mục đích chuyện biệt của Dòng. Các tu sĩ chúng ta, theo gương sáng và ý muốn của thánh Đa Minh, cũng phải chuyên cần học hành như Ngài, đấng đêm ngày, tại tu viện hay khi đi đường, vẫn luôn xem sách hay suy nghĩ về một vấn đề nào, và cố gắng nhớ tất cả những điều có thể nhớ"; hoặc như Chân phước Humberto de Romanis, Bề trên Tổng quyền IV kế vị thánh Đa Minh đã tuyên bố: "Dòng trước tiên đã chọn việc học như mục tiêu trong việc thành lập Dòng; hay nói cho đúng hơn học hành không phải là mục tiêu của Dòng song nó tuyệt đối cần thiết để thực hiện mục đích của Dòng". Thiên Chúa đã muốn sắp xếp cho thánh Đa Minh có một thời gian học hỏi để chuẩn bị cho sứ vụ; và cũng chính vì thánh Đa Minh trung thành với việc học, học hỏi tới nơi tới chốn, mà ngài đã đáp ứng được sứ mạng của Chúa, trở thành một con người sẵn sàng rao truyền chân lý.
Thực sự Thiên Chúa có muôn ngàn cách để kêu gọi con người và chọn lựa các người tông đồ. Thánh Phêrô, chẳng hạn, là một người dân chài, chắc chắn việc học hành chẳng là bao. Tuy thế, Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta gia nhập Dòng Đa Minh, phải chăng Ngài muốn chúng ta sống ơn gọi theo tinh thần Đa Minh, lấy việc học hỏi làm phương pháp cần thiết để chu toàn sứ vụ Thiên Chúa giao phó.
Là một thành viên của gia đình Đa Minh, chúng ta nghe Lời Chúa kêu gọi, cố tâm học hành theo tinh thần Cha Thánh, học hỏi không ngừng, học hỏi trong mọi hoàn cảnh, học trong cầu nguyện, học trong sách vở, học trong cuộc đời. Cũng như thánh Đa Minh, chúng ta xác tín rằng chính nhờ tinh thần học hỏi như vậy, chúng ta có thể nghe được Lời Chúa kêu mời, nghe được sứ vụ Ngài trao phó và chu toàn sứ vụ đó theo đúng Thánh Ý Ngài.
Tài liệu dòng Đaminh, Anh Lm.Nguyễn Trọng Viễn O.P
THÁNH ĐAMINH, (ST. DOMINIC), LINH MỤC
= = = = =
Thánh ĐaMinh, người tông đồ của Chúa đã miệt mài loan báo Tin Mừng Nước Trời, đã hăng say đào tạo các mầm non tu sĩ, linh mục và truyền bá kinh Mân Côi. Ngài đã sống lời Chúa: “Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”( Mt 20, 28 ).
ƠN GỌI LẠ LÙNG:
Thánh Đa Minh sinh tại nước Tây Ban Nha thuộc miền Calaruega năm 1170. Ngài là linh mục triều, coi xứ, lên chức kinh sĩ năm 1194. Đường Chúa có nhiều khúc quanh, có khúc thẳng tắp. Ý Chúa nhiệm mầu ai nào hiểu thấu (Rm 11,33tt). Thánh nhân lại được ơn Chúa soi sáng và hướng dẫn để lập một Dòng tu chuyên lo giảng thuyết, cầu nguyện và sống khó nghèo như thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân muốn đi truyền giáo cho các thổ dân bên nước Nga, nhưng Đức Giáo Hoàng Innnocentê III lại cử Ngài đi Toulouse nước Pháp để đương đầu với những nhóm lạc giáo đang hoành hành xâm lấn. Thánh nhân đã có quyết tâm và khuyên nhủ các bạn bè của Ngài là hãy dùng lời giảng dạy và sống theo tinh thần Tin Mừng vì đó là cốt lõi và là linh hồn của mọi công cuộc truyền giáo, loan báo Nước Trời. Ngài đã đưa ra mục đích duy nhất là hãy hăng say loan truyền sự thật và sống khó nghèo. Năm 1216, Đức Thánh Cha Honoriô III đã chấp thuận luật Dòng của Ngài. Thiên Chúa đã ưu ái dành cho Ngài 5 năm rất ngắn, vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh người gieo giống. Thánh nhân với đời sống mới trong tu Dòng Đa Minh, đã rảo quanh khắp nơi tới nước Pháp, Ý và Tây Ban Nha, Ngài đã đưa được biết bao người lạc giáo trở về với Chúa, với Hội Thánh.
CUỘC ĐỜI ĐẸP - CON NGƯỜI ĐẸP:
Với bao công lao, thánh nhân đã góp công sức biết bao nhiêu cho sự hiệp nhất Giáo Hội và đưa được biết bao nhiêu người trở về với Hội Thánh, với Thiên Chúa Ngài đã truyền bá lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria và loan truyền lòng yêu mến kinh Mân Côi. Thánh nhân đã lập ra một Dòng nữ chuyên môn sống tinh thần của thánh Đa Minh. Thánh nhân cũng lập một Dòng gồm các linh mục chuyên đi giảng thuyết khắp nơi với tinh thần loan báo Tin Mừng và truyền bá kinh Mân côi.
Các tu sĩ của thánh Đa Minh cũng góp công rất nhiều vào việc giáo dục thanh thiếu niên trong các học đường.
Cuộc sống của thánh Đa Minh quả thực sáng ngời các nhân đức. Ngài được Chúa chúc lành: cuộc đời của Ngài đẹp, nổi bật với các nhân đức siêu vời của Ngài và tâm hồn của Ngài chói ngời bác ái vì Ngài họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu. Thánh nhân qua đời tại Bologne nước Ý ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1234, Đức Thánh Cha Grêgoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
VÀI CẢM NGHIỆM:
Thánh Đa Minh đã yêu mến Đức Mẹ, Ngài cảm nghiệm sâu sắc Mẹ luôn có Chúa ở bên. Yêu mến Đức Mẹ cũng đồng nghĩa với việc yêu mến Chúa Giêsu. Ngài không giữ Mẹ cho riêng mình, nhưng Ngài và các sĩ tử Dòng tu nam nữ của Ngài đã luôn rao truyền lòng sùng kính Đức Mẹ và truyền bá Kinh Mân Côi. Ngày nay trên khắp thế giới và đặc biệt trên quê hương Việt Nam, Dòng Đa Minh đã góp công rất nhiều cho Giáo Hội Việt Nam được triển nở phong phú và các linh mục, các tu sĩ nam nữ Đa Minh đã góp công trong việc đào tạo giáo dục thanh thiếu niên trong các học đường.
= = =
THÁNH ĐAMINH - NHÀ GIẢNG THUYẾT
= = =
Mặc dầu là tổ phụ của một Dòng chuyên việc giảng thuyết, Thánh Đa Minh không phải là nhà Thuyết Giáo bẩm sinh. Ngài đã phải nỗ lực nhiều để trở thành nhà Thuyết Giáo. Nếu Đức Giêsu có 30 năm ẩn dật ở Nagiarét, thì Đa Minh khởi sự giảng thuyết khi đã 35 tuổi, sau một tiến trình dài chuẩn bị có định hướng trong học hành và cầu nguyện. Tiếp theo đó là 10 năm du thuyết theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Cha Đa Minh đã hình thành những kinh nghiệm sâu sắc để truyền thụ cho môn sinh mình trong sáu năm cuối đời. Xin mở lại những trang sử, để theo dõi những chặng đường tâm linh của Ngài, khởi từ chiếc nôi gia đình.
Thánh Đa Minh sinh ngày 24-6-1170 tại Caleruega thuộc giáo phận Osma, miền Castille, nước Tây Ban Nha. Thân phụ ngài là bá tước Felix de Guzman, thân mẫu là chân phước Gioanna de Aza. Ba anh em trai đều thụ phong linh mục, người anh cả Antôniô làm tuyên úy bệnh viện, còn anh thứ Mannes, sau vào Dòng Thuyết Giáo của em mình.
1/ Cây trồng trên đất chọn lựa
Ngay từ khi chào đời và trong suốt thời thơ ấu, Đa Minh đã được sống trong bầu khí thuận lợi cho sứ vụ trong tương lai. Tuy thuộc gia đình quí tộc, mọi người đã đón chờ và nuôi dưỡng cậu để trở thành giáo sĩ chứ không phải hiệp sĩ. Trước khi sinh, bà Gioanna mơ thấy từ lòng mình có con chó nhảy ra, cắn bó đuốc chạy khắp địa cầu. Giấc mộng đó chứng tỏ bà ước mong con trai mình trở thành nhà thuyết giáo. Ước vọng tốt đẹp được diễn ra trong mộng bằng biểu tượng phổ biến đương thời : vì hình ảnh "con chó ngậm bó đuốc sáng rực" biểu hiệu nhà thuyết giáo, hỗ trợ vị mục tử Giêsu, canh chừng cho đoàn chiên khỏi sói rừng, đã từng xuất hiện trong tiểu sử thánh Benađô (1090-1153) cũng như nhiều bản văn thời Trung Cổ. Tóm lại, Đa Minh từ bé đã được đào tạo để phục vụ Thiên Chúa.
Như thế, những câu chuyện hấp dẫn thời thơ ấu của Đa Minh, có lẽ chính là bài học của người thân muốn truyền thụ cho cậu hoài bão lớn lao ấy. Ngôi sao trên trán là lời nhắc nhủ sống thánh thiện cao vời, những sự kiện đơn sơ như nằm đất được dùng để nói đến hy sinh. Rồi khi Đa Minh bảy tuổi, gia đình đã gửi đến cậu ruột là linh mục xứ Gumiel. Constantin d'Ovieto so sánh sự kiện này như tiên tri Samuel được gửi đến thày cả Hêli trong Cựu Ước.
Bảy năm sau, Đa Minh được theo học tại trường nhà thờ chính tòa Palencia. Nơi đây, Đa Minh không màng đến văn chương nghệ thuật, chỉ miệt mài học hỏi Lời Chúa. Đến độ "nhiều đêm gần như không ngủ để học hỏi Kinh Thánh".
Sau này Kinh Thánh vốn là nguồn suy niệm không bao giờ cạn của thánh Đa Minh. Hành trang ngài luôn mang theo là Phúc Âm thánh Matthêu và các thư thánh Phaolô. Trên đường đi thuyết giáo, mỗi tối Ngài đưa các bạn đồng hành vào nơi thanh vắng, cùng nhau đọc một vài đoạn Sách Thánh và chia sẻ cho nhau những gì mình suy niệm. Còn giờ đây ở Palencia, Đa Minh đang nghiền gẫm và khám phá Đức Kitô cũng như giáo huấn của Ngài.
2/ Kinh nghiệm giác ngộ
Nhiều nhà sử học gần đây thường coi kinh nghiệm giác ngộ, đổi đời, hay hoán cải của Đa Minh đã diễn ra trong biến cố bán sách giúp người nghèo. Nạn đói đang hoành hành ở Palencia, cũng như khắp Tây Ban Nha, trở thành lời kêu gọi phải hành động. Những năm gắn bó với Kinh Thánh đã sinh hoa kết trái. Từ một người nghiên cứu Kinh Thánh, cậu sinh viên Đa Minh trở thành người sống triệt để Tin Mừng.
Vì đối với một sinh viên trẻ, bộ Tin Mừng và phần chú giải mà mình đã bỏ bao nhiêu thời gian để nắn nót ghi chép là cả một gia tài vô giá không thể lìa xa. Thế mà, chàng sinh viên Đa Minh đã đem bán gia tài ấy cùng với những vật dụng khác để có tiền giúp người nghèo. Anh nói: "Tôi không thể học trên những miếng da chết đang khi người khác chết đói". Như thế Tin Mừng đối với Đa Minh không còn là những hàng chữ chết nữa, mà đã trở thành Lời ban sự sống. Thánh Jordano nhấn mạnh quyết định bán sách của Đa Minh được thực hiện nhanh chóng, ngay lập tức, vì muốn thực hiện Lời Chúa: "Ai muốn nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, đoạn hãy theo Tôi" (Mt.19,21). Chúa lên tiếng gọi và Đa Minh đã đáp trả vững vàng.
Sau khi hoàn tất chương trình học, Đa Minh theo lời mời của linh mục Diego, gia nhập hội kinh sĩ địa phận Osma. Ít lâu sau, anh thụ phong linh mục và làm phó bề trên kinh sĩ đoàn.
3/ Tại Osma
Gia nhập kinh sĩ đoàn trong thời vàng son này, cha Đa Minh đã học được kinh nghiệm sống chung theo tinh thần Giáo Hội tiên khởi (Cv.4,32). Theo tu luật Augustino, các kinh sĩ sống hòa hợp "một trái tim một tâm hồn", để tài sản làm của chung, đề cao kinh nguyên chung, việc học hành và chia nhau đi rao giảng, giúp đỡ người bất hạnh. Tại Osma, cha Đa Minh nổi bật về lòng khiêm tốn, trở nên người rốt hết trong cộng đoàn. Sau này, điều đầu tiên Ngài căn dặn về việc huấn luyện tập sinh, là sống khiêm tốn trong lòng cũng như bên ngoài.
Ngoài ra thánh Jordano còn ghi nhận, cha Đa Minh đã sử dụng cuốn "Đối chiếu các giáo phụ", bàn về các nết xấu và cuộc đời hoàn thiện. Nhờ đó cha khám phá ra những đường lối muôn nẻo dẫn tới ơn đứu độ. Cha hết mình sống theo đường lối đó.
"Nhờ ơn sủng hỗ trợ, cuốn sách đã giúp cha đạt được một lương tâm tinh tuyền, chiêm ngưỡng được nhiều ánh sáng và lên đến đỉnh hoàn thiện"
Thế nhưng điều cần nhấn mạnh hơn cả trong giai đoạn này là lối cầu nguyện của cha Đa Minh. Đó là biểu hiện của lòng khát vọng liên kết mật thiết với Đức Kitô, cảm thông những khốn khổ của nhân trần và hiến toàn thân cho họ được ơn cứu độ.
4. Cha Đa Minh cầu nguyện
Là người từng chung sống, chứng kiến và nghe cha Đa Minh cầu nguyện, chân phước Jordano ghi rằng: "Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những sầu khổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài: "Chúa ơi ! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? "
Đó là sự đồng cảm với Đức Kitô, yêu nhân gian bằng những rung cảm, thao thức của chính Chúa thuở xưa. Tình yêu đó thúc đẩy cha, trong giờ cầu nguyện, thân thưa với Chúa về những người đã gặp, học với Chúa để biết xót thương và cảm thông với những người sẽ gặp:
"Lúc nào cha cũng cầu xin cho được lòng bác ái đích thực để mưu tìm và chăm lo phần rỗi cho mọi người cách hữu hiệu. Cha nghĩ rằng chỉ khi nào mình noi gương Chúa Cứu Thế, hiến toàn thân toàn sức cứu rỗi các linh hồn thì mới thực sự trở thành chi thể của Chúa"
Cha không hề nghi ngờ Thiên Chúa Đấng hằng xót thương. Cha chỉ xin Chúa mở rộng cõi lòng mình để biết yêu thương và cảm thông. Và trong giờ kinh nguyện nồng cháy đó, cha muốn đưa hết thảy lương dân, người Do thái, người Hồi giáo hay anh em Ly giáo... nghĩa là tất cả, đến với Chúa Cứu Thế.
Lời cầu nguyện đó biểu lộ lòng cha yêu thương các tội nhân. Cha lấy tấm lòng của Thiên Chúa để ôm ấp họ.
Cha không chuyển cầu cho bằng "kết hợp" ngày càng sâu xa hơn với Đức Giêsu, là Đấng trên Thánh Giá đã dạy cho loài người nghệ thuật yêu thương.
Và như thế đó, hết đêm này tới đêm khác, cha Đa Minh học với Chúa nghệ thuật giảng thuyết.
Tuy nhiên, cha không vội vã lên đường thi hành sứ vụ ngay. Có lẽ cha cũng chưa nghĩ tới điều đó. Suốt đời, cha không bao giờ đốt giai đoạn, cha biết chờ đợi đúng lúc.
5/ Một đêm không ngủ
Năm 1203, lần đầu tiên cha Đa Minh có cảm hứng lập Dòng, nhưng mọi chuyện đã xảy ra như bất ngờ. Giám mục Diego chọn cha Đa Minh tháp tùng đi Đan Mạch cầu hôn cho hoàng tử, con vua Alphonso VIII, miền Castille. Khi đi ngang miền nam nước Pháp, cha Đa Minh chứng kiến cảnh đau lòng. Người ta thiếu tin tưởng vào giới chức trong Giáo Hội. Ngày càng đông các thiện nam tín nữ rời bỏ Giáo Hội đi theo các nhóm Cathares, theo chủ thuyết nhị nguyên, vừa sống thanh thoát, vừa hoạt động hăng say.
Ngay đêm đầu tiên ngủ tại quán trọ, cha gặp người chủ quán đã gia nhập nhóm Cathares. Thế là lửa nhiệt tâm với các linh hồn đã đượm nóng suốt bao năm chiêm niệm tại Osma, bỗng bừng cháy lên. Cha Đa Minh thức trắng đêm, thân ái nhưng thẳng thắn, trao đổi và thuyết phục người chủ quán trở về chính lộ. Chính đêm nay cha mường tượng thấy một điều: Muốn cảm hóa được lạc giáo, cần phải có những người nhiệt tình, hiểu và sống Tin Mừng, sẵn sàng ra đi, đối thoại và thuyết phục họ.
6/ Đi như người loan báo tin vui
Lửa nhiệt tình truyền giáo đã bùng lên trong cha Đa Minh đêm đó sẽ không bao giờ tắt nữa. Trong chuyến đi lần thứ hai (1205) để đón công chúa Đan Mạch, khi nghe tin công Chúa thất lộc (Nhiều người cho rằng công chúa vào tu trong đan viện), Giám mục Diego và cha Đa Minh hành hương Roma, xin Đức Thánh Cha cho phép đi giảng cho người Cumans, Hồi Giáo. Trong ước muốn đảm nhận sứ vụ của Giáo Hội, hai vị đã tình nguyện đến những biên cương khó khăn nhất. Thế nhưng, tuân theo sự phân công của Giáo Hội, hai vị đã hy sinh ý định lớn lao, sẵn sàng phục vụ tại miền Nam nước Pháp.
Trở về Montpellier, một lần nữa hai vị được chứng kiến sự thành công của nhóm Cathares. Các đặc sứ Tòa Thánh, các đan sĩ hoạt động tại đây, hầu như đã thất vọng hoàn toàn. Hai vị liền để tâm nghiên cứu tình hình và nhận ra lý do thất bại. Các đặc sứ thì uy nghi lộng lẫy với đoàn tùy tùng đông đảo, còn phái Cathares thành công nhờ nếp sống nghèo khổ hạnh.
Nguồn gốc sâu xa của các nhóm lạc giáo khởi từ công cuộc canh tân đã khởi sự được hơn một thế kỷ. Giáo Hội đang sống trong thời đại canh tân, thường được gọi là cuộc canh tân Grêgoriô VII, vị giáo hoàng đã đẩy mạnh cuộc cải tổ này. Phong trào đã tìm thấy nguồn sinh lực gợi hứng từ Kinh Thánh và thời đại các Tông đồ để đáp lại những thách đố và lạm dụng như người ta thấy ngay trong nội bộ giáo sĩ: sự dốt nát, ù lì và thiếu khả năng để rao giảng.
Tìm cách thoát ra những tệ lạm này, một đàng nhờ các giáo sĩ nhiệt tình, đàng khác nhờ chính những giáo dân nỗ lực trở lại với đời sống đơn giản và nghèo khó của giáo hội tiên khởi. Họ lấy việc sống như các Tông đồ làm lý tưởng. Những vị giáo sĩ muốn canh tân này đã đề ra hình thức cụ thể để thực hiện lý tưởng của mình bằng lối sống tu trì tại các Kinh sĩ đoàn. Họ nỗ lực đưa đời sống cầu nguyện và sứ vụ tông đồ vào lòng các Đan viện. Số các Kinh Sĩ đoàn ngày càng gia tăng đã phát sinh nhiều cộng đoàn nổi tiếng như Prémontrée, Saint-Victor và tại Anh là nhóm Gilbertin.
Những tín hữu muốn tham gia cuộc cải tổ liên đới lại thành các huynh đệ đoàn sám hối, họ nhấn mạnh đời sống nghèo, hãm mình nghiêm ngặt và rao giảng. Vì quá nhiệt tâm, nhiều người trong họ đã đi đến sai lầm, họ đánh giá việc khó nghèo như các Tông đồ là điều kiện tiên quyết và tối cần để giảng thuyết và trao ban các bí tích thành sự. Nhưng dầu sao, nếp sống nghèo của họ hấp dẫn hơn với quần chúng.
Nhờ kinh nghiệm đã từng theo nếp sống giáo hội sơ khai tại kinh sĩ đoàn Osma, đức cha Diego và cha Đa Minh hăng hái cổ cõ các viện phụ rũ bỏ các hành lý cổng kềnh, để ra đi với đôi bàn tay trắng của Đức Kitô. Cần phải trở thành người loan báo tin vui chứ đừng làm kẻ chinh phục. Vị giám mục nói: "Xin quý ngài cho đoàn tùy tùng trở về, hãy đi từng hai người một theo gương các Tông đồ, Chúa sẽ chúc phúc cho những nỗ lực của quý Ngài".
Hiến kế xong, hai vị làm ngay điều mình nói và các viện phụ đều theo ... "Mọi người nhận vị Giám mục làm người chỉ huy toàn chiến dịch. Tất cả bắt tay vào việc truyền bá đức tin, tự nguyện sống nghèo, đi chân đất và không mang tiền bạc... Các Ngài chỉ giữ lại sách và một số vật dụng tối cần thiết"
Cha Đa Minh không quản ngại khó khăn vất vả. Mấy tháng liền Cha dành trọn ban ngày cho tha nhân và thức trắng đêm thờ phượng Chúa. Đặc biệt trong mỗi lần tranh luận, cha mời đối phương cử trọng tài. Sự tín nhiệm đó đã đem lại hiệu quả bất ngờ.
Một lần kia, Chúa tỏ dấu xác nhận lời cha. "Ở Montréal, người Cathares không đốt nổi cuốn sách do cha viết". Đã đến lúc những hoạt động hăng say, lời giảng trìu mến kèm với dấu lạ cuốn sách không bị cháy, trỗ sinh hoa trái đầu mùa: một vài phụ nữ bỏ phái Cathares đến xin cha hướng dẫn.
Cảm hứng theo tổ chức của lạc giáo, vốn có các "tín nữ" yểm trợ đắc lực cho những nhà du thuyết, cha Đa Minh đã bố trí họ trong cộng đoàn Prouille, miền Fanjeaux nước Pháp, ngay trên địa bàn của lạc giáo. Tu viện Prouille trở thành cơ sở đầu tiên của nữ đan viện Đa Minh (1206). Dưới mái trường êm ấm đó, các chị học theo Chúa Cứu Thế hiền từ và khiêm nhượng trong lòng, luyện tập mở rộng tâm hồn, mong ước cho mọi người được ơn cứu độ ... Và dĩ nhiên, trước tiên cho những thân hữu lạc giáo sống quanh mình.
Năm 1207, Đức cha Diego phải trở về Osma để thu xếp công việc địa phận và qua đời tại đó. Chỉ còn cha Đa Minh với cái tên thân ái "Anh Đa Minh" vẫn tiếp tục rao giảng không mỏi mệt. Theo lời cha Jordano : "thỉnh thoảng có vài anh em đến chung sống với cha, nhưng chưa có ai khấn vâng lời".
7/ Tình yêu Chúa thúc bách tôi
Năm 1208, do thái độ cứng rắn, đặc sứ Pierre Castelnau bị sát hại. Đức Innocentê III mất kiên nhẫn, tuyên bố thánh chiến với Albigeois. Nhưng cha Đa Minh không tham gia cuộc chiến này. Ba tài liệu viết tay của ngài còn được lưu giữ, gồm một thư gửi các nữ đan sĩ và hai chứng từ cấp cho người Cathares trở lại. Con đường Ngài chọn vẫn là cầu nguyện và rao giảng. Ngài nói: "chống kiêu ngạo bằng khiêm tốn, chúng ta hãy đi chân không đến gặp Goliát". Cha không tin vào vũ khí bạo lực mà tin vào những hòn sỏi nhỏ bé cộng với sự phù trì của Thiên Chúa.
Lần kia, khi khuyên một người lạc giáo trở về, cha nhận được câu trả lời bất ngờ: "Tôi không thể rời xa họ, vì tôi ăn nhờ ở trọ trong nhà họ". Đa Minh vừa lúng túng vừa đau lòng vì không có gì để trợ cấp cho anh ta. Cuối cùng cha tìm ra giải pháp: tự bán thân mình để lấy tiền cứu anh khỏi hố thẳm tội lỗi.
Như vậy, cha Đa Minh muốn theo sát Đức Kitô, vì "không có gì cao quý bằng kẻ hiến mạng sống mình cho người mình yêu". Nhiều lần cha ước mơ làm nạn nhân của những tấn tuồng tử đạo khủng khiếp. Khi đối phương hỏi Ngài có sợ bị bắt không? Ngài trả lời: "Nếu bắt được tôi, xin các anh đừng giết tôi ngay, hãy băm xác tôi ra thành trăm mảnh, xẻo tai cắt mũi, rồi để tôi nửa sống nửa chết hay muốn kết liễu thì tùy ý anh". Lần khác cha vui vẻ theo nhóm lạc giáo vào rừng gai, nhìn chân xước, máu chảy Ngài nói "sám hối phải thế đó". Rồi cười thoải mái trước sự ngạc nhiên của họ.
8/ Chân dung nhà thuyết giáo
Cha Đa Minh thường chọn đi giảng ở Carcassone, vì Ngài nói: "Ở Toulouse này tôi gặp nhiều người ca tụng, còn ở Carcas-sonne, mọi người chống lại tôi". Quả thế, tại vùng đó, đối phương sỉ nhục ngài đủ cách. Họ nhỗ nước miếng, ném bùn, nhét rơm vào áo rồi chế diễu. Như các tông đồ xưa, Ngài sung sướng được chịu sỉ nhục vì Danh Chúa Kitô, kiên cường không lùi bước trước trở ngại đe dọa. Ngài bình thản tiếp tục hành trình, vui vẻ ca hát.
Viện phụ Guillaume de Pierre, một nhân chứng đương thời cho ta biết: "Đa Minh khát khao mãnh liệt ơn cứu rỗi các linh hồn ... Ngài hăng say rao giảng ngày đêm, trong nhà thờ, nơi nhà riêng, giữa cánh đồng và ngay trên đường đi. Ngài không ngừng công bố Lời Chúa, cổ võ anh em cũng làm như vậy, bao giờ cũng chỉ nói về Chúa. Ngài từ chối chức giám mục Conséran... Ngài âu yếm an ủi anh em bệnh tật, kiên nhẫn khích lệ những người nản chí. Ngài quảng đại tặng người nghèo mọi thứ mình có. Ngài không có giường nào ngoài nhà thờ, nếu không có nhà thờ, Ngài ngủ ghế, ngủ đất, hoặc tháo nệm gia chủ trải để nằm trên trỉ giường. Bao giờ tôi cũng thấy ngài mặc áo chùng, vá trên vá dưới. Ngài luôn luôn mặc áo xấu nhất trong anh em. Ngài cổ võ người này kẻ khác sống đức tin và bình an"
Có lẽ từ năm 1213, cha Đa Minh phổ biến Kinh Mân Côi, khi đó còn dưới dạng thức đơn giản "Kính Mừng Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà có phúc hơn mọi người nữ". Nhóm Cathares vốn coi vật chất là điều xấu, họ không tin Chúa Giêsu nhập thể trong xác phàm và như thế họ cũng chối nhân tính đức Giêsu trên Thánh Giá. Lời kinh Mân Côi đơn sơ nhắc nhớ đến mầu nhiệm nhập thể và cứu độ, có sức tác động giúp suy niệm về cuộc sống, cuộc khổ nạn và vinh quang của Đức Giêsu, đưa nhiều người rời bỏ lạc giáo.
Lm. Phanxicô X. Đào Trung Hiệu OP
Nguồn: http://www.daminhvn.com
ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊDICTÔ 16 NÊU CAO GƯƠNG THÁNH ĐAMINH
= = =
Ngọn lửa truyền giáo phải nung nấu con tim của Giáo Hội, thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người và sống phù hợp với điều chúng ra rao giảng, mà không để cho mình bị cám dỗ kiếm tìm địa vị và quyền bính.
Đức Bênêdictô XVI khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chúng sáng thứ tư 3-2-2010 tại đại thính đường Phaolô VI.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha giới thiệu gương mặt của một vị thánh lớn sống đồng thời với thánh Phaxicô Assisi: đó là thánh Đaminh, vị sáng lập dòng các Anh Em Giảng Thuyết, hay cũng quen gọi là Dòng Đaminh. Nét nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân là “luôn luôn nói với Chúa và nói về Chúa”.
Trong cuộc đời các thánh tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân, việc tìm kiếm vinh danh Chúa và ơn cứu rỗi các linh hồn luôn đi đôi với nhau.
Gợi lại tiểu sử thánh Đaminh Đức Thánh Cha nói:
“Thánh Đaminh sinh tại Caleruega bên Tây Ban Nha khoảng năm 1170 và thuộc gia đình quyền qúy vùng Caleruega. Được một ông cậu linh mục nâng đỡ cho theo học một trường nổi tiếng tại Palencia, cậu Đaminh cho thấy mình thích học môn Kinh Thánh và rất yêu thương người nghèo, đến độ có lần bán cả sách để lấy tiền giúp các nạn nhân của một trận đói kém.
Sau khi thụ phong linh mục, cha Đaminh được chọn làm kinh sĩ nhà thờ chính tòa giáo phận. Thay vì coi đó như là lý do tăng uy tín cá nhân và dịp tiến thân trong Giáo Hội và giữa lòng xã hội, cha Đaminh coi đó là việc phục vụ phải thi hành với sự tận tụy và lòng khiêm tốn. Tiến thân và quyền bính cũng là một cám dỗ thường xuyên đe dọa những người có nhiệm vụ linh hoạt và cai quản trong Giáo Hội.
Đức Cha Diego, Giám Mục giáo phận Osma, một chủ chăn nhiệt thành, nhận ra ngay các đức tính tinh thần của cha Đaminh và muốn cha cộng tác với mình. Ngài đem cha theo trong các chuyến đi thi hành sứ mệnh ngoại giao do vua Castille giao phó tại các nước miền bắc Âu châu. Nhờ đi đó đây như thế, Cha Đaminh nhận ra hai thách đố rất lớn đối với Giáo Hội thời đó: thứ nhất, là sự kiện nhiều dân tộc chưa được rao truyền Tin Mừng, và thứ hai, là tình trạng rách nát tôn giáo làm suy yếu cuộc sống Kitô tại miền nam nước Pháp, nơi có vài nhóm lạc giáo gây xáo trộn và xa rời chân lý đức tin. Thế là thánh Đaminh nhất quyết chọn sứ mệnh truyền giáo cho những người chưa biết Chúa và tái truyền giảng Tin Mừng cho các cộng đoàn Kitô. Chính Đức Giáo Hoàng xin cha Đaminh đảm trách rao giảng Tin Mừng cho bè phái lạc giáo Albigeois.
Nhóm lạc giáo này theo thuyết Nhị Nguyên, rao giảng hai nguyên lý tạo dựng Thiện Ác cùng quyền năng như nhau. Họ khinh rẻ vật chất phát xuất từ nguyên lý sự dữ, đến khước từ cả hôn nhân, sự nhập thể của Chúa Kitô, các bí tích trong đó Chúa ”đụng tới” chúng ta qua vật chất và khước từ cả sự sống lại của thân xác nữa. Các người theo bè phái Albigeois có cuộc sống nghèo nàn khắc khổ gương mẫu và họ chỉ trích nếp sống giầu sang của hàng giáo sĩ thời đó. Thánh Đaminh hăng hái nhận sứ mệnh này và thực hiện nó với nếp sống nghèo nàn khắc khổ của người qua việc rao giảng Tin Mừng và các cuộc tranh luận giữa công chúng. Và thánh nhân dành suốt cuộc đời cho việc rao giảng Tin Mừng cho dân chúng sống trong các thành phố và nhất là, cho giới sinh viên trí thức đại học, nơi các khuynh hướng trí thức mới trở thành một thách đối với đức tin của giới có học.
Thánh nhân nhắc cho chúng ta biết rằng ngọn lửa truyền giáo phải luôn cháy sáng trong con tim của Giáo Hội và không ngừng thúc đẩy công tác rao truyền Tin Mừng và nếu cần tái rao giảng Tin Mừng. Thật thế Chúa Kitô là thiện ích lớn lao nhất mà con người thuộc mọi thời đại và nơi chốn có quyền hiểu biết và yêu mến. Thật là an ủi khi thấy cả ngày nay nữa trong Giáo Hội, cũng có biết bao nhiêu người gồm các chủ chăn và giáo dân, cũng như tu sĩ các dòng tu cũ mới và các phong trào, tươi vui xả thân loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.
Bị lôi cuốn bởi khát vọng này, đã có nhiều người nhập đoàn với thánh Đaminh. Và thế là nảy sinh ra dòng Anh Em Giảng Thuyết Đaminh, và cộng đoàn đầu tiên được thành lập tại Toulouse bên Pháp. Theo các chỉ dẫn của Đức Giáo Hoàng Innocentê III và Honorio III thánh Đaminh lấy Luật của thánh Agustino và thích ứng nó với các nhu cầu của đời sống tông đồ, khiến cho các tu sĩ di chuyển đây đó để rao giảng, rồi lại trở về tu viện là nơi nghiên cứu học hỏi, cầu nguyện và sống đời cộng đoàn. Thánh Đaminh muốn đề cao hai giá trị cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng được thành công: đó là cuộc sống cộng đoàn trong nghèo khó và việc học hỏi.”
Tiếp tục bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nêu bật đặc tính của dòng Anh Em Giảng Thuyết là khất thực, nghĩa là không có các tài sản và đất đai rộng lớn phải quản trị. Yếu tố này khiến cho các tu sĩ sẵn sàng hơn với việc học hỏi nghiên cứu và rao giảng lưu động, và là chứng tá sống động cụ thể đối với dân chúng.
Việc cai quản trong các tu viện và tỉnh dòng Đaminh được tổ chức theo cơ cấu tu nghị bầu các bề trên, rồi được các Bề trên Thượng cấp phê chuẩn sau đó: nghĩa là một tổ chức khích lệ cuộc sống huynh đệ và tinh thần trách nhiệm của tất cả mọi thành phần cộng đoàn, và đòi buộc phải có các xác tín cá nhân cao độ... Chân lý được học hỏi và chia sẻ trong tình bác ái với các anh em khác, là nền tảng sâu xa nhất của niềm vui.
Nói về thánh Đaminh, chân phước Giordano de Saxe viết: ”Thánh nhân tiếp đón mọi người với tình bác ái lớn lao và bởi vì người yêu mến tất cả, nên tất cả đều yêu mến người. Người tự đặt cho mình một luật lệ đó là vui với người vui và khóc với người khóc”.
Đặc điểm thứ hai, đó là thánh Đaminh đã có một cử chỉ can đảm khi gửi các tu sĩ của dòng theo học tại các đại học thời đó, vì người muốn các tu sĩ nhận được một sự đào tạo thần học vững chắc, mặc dù nhiều người nghi kỵ các cơ cấu trí thức này. Hiến pháp dòng Đaminh rất coi trọng việc học hỏi như là sự chuẩn bị cho công tác tông đồ. Thánh nhân muốn các tu sĩ dấn thân học hỏi với trí thông minh và lòng đạo đức; một việc học hỏi dựa trên Kinh Thánh là linh hồn của mọi hiểu biết thần học, và có thái độ tôn trọng đối với các vấn nạn do lý trí đặt ra. Sự phát triển của nền văn hóa đòi buộc những người có sứ mệnh rao giảng Lời Chúa phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Và Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi như sau:
“Vì thế tôi khích lệ tất cả, các chủ chăn và giáo dân vun trồng ”chiều kích văn hóa” của đức tin, để cho vẻ đẹp của chân lý Kitô có thể được hiểu biết một cách tốt đẹp hơn, và đức tin có thể thực sự được dưỡng nuôi, củng cố và bảo vệ. Trong Năm Linh Mục này, tôi mời gọi các chủng sinh và linh mục biết quý trọng giá trị tinh thần của việc học hỏi. Phẩm chất của thừa tác linh mục cũng tùy thuộc nơi lòng quảng đại mà mỗi người áp dụng cho việc học hỏi các chân lý mạc khải.
Thánh Đaminh là người đã muốn thành lập dòng các vị giảng thuyết thần học gia, nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng thần học có chiều kích tu đức và mục vụ, khiến cho linh hồn và cuộc sống được phong phú... Khẩu hiệu của các tu sĩ Đaminh ”thông truyền cho người khác điều đã chiêm niệm” giúp chúng ta khám phá ra khát vọng mục vụ trong việc chiêm ngắm học hỏi chân lý.
Khi thánh Đaminh qua đời vào năm 1221 tại Bologna, là thành phố đã chọn thánh nhân làm Bổn Mạng, với sự yểm trợ của Tòa Thánh, dòng Anh Em Giảng Thuyết đã được phổ biến tại nhiều nước Âu châu và sinh ích lợi cho toàn thể Giáo Hội. Cha Đaminh đã được tôn phong hiển thánh năm 1234.
Chính ngài đã chỉ cho chúng ta thấy hai phương thế không thể thiếu, khiến cho công tác tông đồ sinh nhiều hoa trái. Trước hết, là lòng sùng kính Đức Mẹ, mà ngài đã vun xới với lòng hiền dịu và để lại như gia tài quý báu cho con cái thiêng liêng của ngài. Trong lịch sử Giáo Hội, các tu sĩ Đa minh đã có công lớn trong việc phổ biến Kinh Mân Côi, là lời kinh rất được Kitô hữu ưa thích và giầu giá trị Tin Mừng và là một trường học đích thật của đức tin và lòng đạo hạnh. Thứ hai, thánh Đaminh đã lo lắng cho một số tu viện nữ tại Pháp và Roma, và tin chắc nơi giá trị của lời cầu nguyện cho công tác tông đồ. Chỉ trên thiên đàng, chúng ta mới hiểu được lời cầu nguyện của các nữ tu dòng kín đồng hành với hoạt động tông đồ một cách hữu hiệu tới mức nào ! Tôi xin cám ơn từng nữ tu dòng kín một với tâm tình biết ơn trìu mến.”
Kết thúc bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói : Cuộc sống của thánh Đaminh Guzman thôi thúc chúng ta sốt sắng trong lời cầu nguyện, can đảm sống đức tin, và say mê Chúa Giêsu Kitô. Nhờ lời bầu cử của người, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho Giáo Hội có nhiều vị rao gảng Tin Mừng đích thực.
Linh Tiến Khải (Theo Radio Vatican)
http://www.tinvuiviet.net/
THÁNH ĐAMINH RAO GIẢNG TIN MỪNG BẰNG CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG
Lm. Quốc Văn, OP.
Trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Độ”, số 42, Đức Chân Phước Gioan Phaolô II đã dạy:
“Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy. Tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý, tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Kitô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được. Chúa Kitô, Đấng mà chúng ta đang tiếp tục sứ mạng của Người, là “Vị Chứng Nhân” tuyệt hảo (Kh 1,5 ; 3,14) và là khuôn mẫu cho chứng tá Kitô giáo. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo hội trên bước đường của Giáo hội, đồng thời liên kết Giáo hội với lời chứng của Người về Chúa Kitô” (Ga 15,26-27).
Quả vậy, ngược dòng thời gian với 8 thể kỷ trước, chúng ta bắt gặp chân dung một nhà truyền giáo vĩ đại là thánh Đaminh. Ngài đã rao giảng Tin mừng bằng cách dấn thân vào chính vấn nạn của thời đại, ngài đã cho thấy Lời Chúa là nguồn mạch và chìa khóa vạn năng của việc rao giảng Tin mừng, và ngài đã sống như một chứng tá, sống chính niềm xác tín mà ngài đang rao giảng.
1. Chứng tá về lòng thương cảm
Sử sách của Dòng ghi lại rằng:
“Khi khám phá thấy cư dân miền Nam nước Pháp đã theo lạc giáo từ lâu, Cha thánh tràn đầy thương cảm với bao linh hồn đáng thương bị lầm lạc. Ngay đêm đầu đến trọ tại thành phố Toulouse thánh Đaminh đã mạnh mẽ, quyết liệt tấn công người chủ quán, dùng nhiều lý lẽ vững mạnh để thuyết phục ông. Người chủ quán đã bị khuất phục trước lẽ khôn ngoan và tinh thần của vị khách: nhờ sự can thiệp của Thần Khí Thiên Chúa, thánh Đaminh đã đưa người ấy trở về với đức tin” (LIB s. 15).
Chính lòng thương cảm đã thúc đẩy thánh Đaminh phải hành động. Một trong những tu sĩ đầu tiên của Dòng, một người đáng tin cậy, là anh Stêphanô đã làm chứng trong án phong thánh rằng: vào khoảng năm 1195, vào thời điểm thánh Đaminh còn đang là sinh viên Thần học tại Đại học Palencia, Tây Ban Nha, thì có một nạn đói khủng khiếp. Động lòng trắc ẩn trước những anh chị em đói khổ, thánh Đaminh đã bán những cuốn sách tự tay Ngài ghi chú, cùng với những vật dụng khác nữa, để trao tặng cho người nghèo. Ngài nói: “Tôi không muốn học trên những tấm da chết, trong khi có những người chết vì đói” (VIE 35).
Nhạy cảm trước đau khổ của người khác chính là đặc tính sâu sắc đã chi phối suốt cả cuộc đời của thánh Đaminh và Ngài đã vận dụng tất cả năng lực của mình để tìm mọi cách thức, mọi biện pháp nhằm giải thoát con người khỏi đau khổ. Đã hai lần, khi không còn gì để bán nữa, Ngài xin được bán mình làm nô lệ để có tiền giúp đỡ những người nghèo khó. Sau này, chính ngài đã thiết lập một viện tế bần ở Palencia.
Đúng là mối thương cảm trước nỗi khổ đau của con người đã đụng chạm đến tận tâm hồn chàng sinh viên Đaminh trẻ tuổi và đã không bao giờ rời bỏ chàng nữa. Có thể nói, lòng thương cảm là nét đặc trưng đầu tiên nơi con người thánh Đaminh. Lòng thương cảm này giúp thánh nhân đi vào mối hiệp thông sâu xa với nỗi khổ đau của người khác. Đó chính là lòng thương cảm của Đức Giêsu, lòng thương cảm thánh Đaminh đã học được dưới chân thập giá.
Lòng thương cảm nơi thánh Đaminh không phải là một thứ tình cảm ủy mị, nhưng là một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng mở ra để sẻ chia và xao xuyến trước nỗi đau của người anh em đồng loại. Người không thể chịu đựng nổi khi có những người phải sống trong cảnh khốn cùng. Cảnh cùng khốn ấy có thể là sự đói khát về vật chất, nhưng sâu xa hơn còn là sự đói khát tinh thần, đói khát chân lý. Nếu nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”, thì chúng ta khâm phục biết bao trước tấm lòng của cha thánh Đaminh. Thánh nhân đã nhận được từ Trời cao ân sủng là lòng thương xót trước nỗi đau khổ của người khác. Ngài đã tỏ hiện lòng thương cảm ấy khi nạn đói xảy ra tại Valencia và ngài còn tỏ hiện trong suốt cuộc đời của mình.
Lòng thương cảm nơi thánh Đaminh không hề là mớ lý thuyết xuông, nhưng là những việc cụ thể, những việc làm có thể định hướng và thay đổi cả cuộc đời của thánh nhân. Chính lòng thương cảm là động lực thúc đẩy ơn gọi của thánh Đaminh. Thánh nhân đã thực sự xao xuyến khi nhận thấy nỗi khổ của những người lầm lạc, do u minh mà đã chạy theo lạc giáo, xa rời Giáo hội. Thánh Đaminh thực sự là con người nhạy cảm với vấn nạn thời đại của mình.
Rất nhiều nhân chứng đã nhìn thấy thánh Đaminh khóc và cầu nguyện lớn tiếng giữa màn đêm cô tịch: “Lạy Chúa, rồi số phận của những người tội lỗi sẽ ra sao?” Hình ảnh cảm động ấy thật đẹp biết bao, hình ảnh ấy dường như phản ánh mẫu gương của chính Đức Giêsu thương khóc khi thấy thành Giêrusalem dửng dưng trước sứ điệp tình yêu của Người. Vì cảm nhận sâu xa tình yêu của Chúa, muốn nhận lấy cuộc khổ nạn của Đức Kitô làm của mình, và cảm nhận sức nặng tội lỗi của thân phận con người, thánh Đaminh hay rơi lệ khi cử hành thánh lễ.
Nếu phải mô tả chân dung của thánh Đaminh với những nét đẹp tinh thần, thì những lời vắn tắt sau đây của chân phước Giordano de Saxe thật là cảm động và chính xác:
“Thánh Đaminh đón nhận mọi người với lòng bác ái bao la, và bởi vì thánh nhân yêu mến mọi người, nên được mọi người yêu mến. Người có luật riêng cho mình là vui với người vui và khóc với người khóc, đầy lòng thương cảm và tận tâm lo cho người khác, đồng chịu nỗi khổ đau với người khác”.
Khi thành lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết, thánh Đaminh mong muốn rằng các anh em của ngài chia sẻ cùng một nỗi thương cảm, cùng một lòng trắc ẩn ấy. Ngài muốn rằng các anh em ra đi rao giảng với một lệnh truyền duy nhất: đem đến cho con người đang rơi vào cảnh khốn cùng thể lý cũng như tinh thần, câu trả lời phát xuất từ trái tim của Thiên Chúa. Chính vì thế, là môn sinh của thánh Đaminh, ước chi đời sống chứng tá của mỗi chúng ta trở thành lời giảng hùng hồn về lòng thương cảm của Thiên Chúa.
2. Nối tiếp chứng tá lòng thương cảm của thánh Đaminh
Để nối tiếp chứng tá lòng thương cảm của thánh Đaminh, chúng ta phải làm gì ? Thay cho những trình bày lý thuyết, tôi xin kể ra đây hai mẩu chuyện thực tế:
1. Câu truyện thứ nhất:
Trong những ngày Đại hội Giới trẻ vừa qua tại Brazil, trang báo điện tử Vietcatholic đã đăng tải một câu chuyện cảm động về Anh Felipe Passos, người thanh niên này đã làm cho hàng triệu con tim rúng động khi anh chia sẻ câu chuyện riêng tư của mình trong đêm canh thức 27/ 7, tại bãi biển Copacabana trước sự hiện diện cuả Đức Giáo Hoàng và 3 triệu khách hành hương.
Anh kể lại đã tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Madrid vào năm 2011, và đã cam kết hai lời hứa thiêng liêng. Anh hứa sẽ sống trong sạch cho đến khi kết hôn và chăm chỉ làm việc để gây quĩ cho nhóm Ponta Grossa, một nhóm thanh niên cầu nguyện ở tiểu bang Paraná của Brazil, để có thể tham gia Ngày Giới trẻ Thế giới một lần nữa, tổ chức năm nay tại Rio de Janeiro.
Với nguồn tài chánh eo hẹp, Felipe và nhóm bạn bè gây vốn bằng cách làm thêm nhiều công việc nặng nhọc và cùng một lúc chuẩn bị tinh thần bằng cầu nguyện, tôn thờ Thánh Thể, ăn chay và làm việc phúc đức.
Nhưng một sự khủng khiếp đã xảy ra cho họ.
Anh kể với giọng xúc động rằng: "Vào tháng Giêng năm nay, hai ngày trước khi tôi lên 23 tuổi, hai thanh niên đã đột nhập vào nhà của tôi, súng trên tay, đòi cướp số tiền mà chúng tôi đã dành dụm với rất nhiều hy sinh. Tôi nghĩ về những nỗ lực rất lớn cuả nhiều ngày tháng, về những hy sinh cuả những người trong gia đình, của bạn bè và đồng nghiệp ... tất cả những cái ấy sắp bị cướp đi trong khoảnh khắc và vì thế mà tôi cương quyết sẽ bảo vệ nó."
Anh Felipe thành công trong việc bảo vệ số tiền tiết kiệm của nhóm, nhưng anh đã bị trúng đạn, viên đạn ấy hầu như kết liễu cuộc sống của anh.
Felipe nói: "Đối với bệnh viện thì tôi đã chết, tim ngừng đập nhiều lần, và các bác sĩ đã nói với cha mẹ tôi rằng 'cậu bé này không có hy vọng,’ nhưng tôi vẫn còn ở đây và nhóm của tôi vẫn còn đến đây được chỉ vì lòng thương xót của Chúa. "
Toàn thể bãi biển đông nghịt người hầu như bị lên cơn sốc trong một sự im lặng đến nghẹt thở, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhìn anh chăm chú.
Anh Felipe tả lại cảnh tượng anh bị hôn mê, thở qua ống dưỡng khí, trong khi cộng đoàn giáo xứ liên lỉ cầu nguyện và làm việc hy sinh hãm mình cho anh. Cuối cùng... thì anh tỉnh dậy, điều đầu tiên anh xin là được rước Mình Thánh Chúa, anh hồi phục nhanh chóng.
Nhưng Felipe đã bị bất toại phải ngồi xe lăn, anh cho biết, "đây là cây thập giá, cây thập giá Chúa gửi đến cho tôi để tôi có thể đi tới gần Ngài & sống nhiều hơn trong ân sủng và tình yêu của Chúa."
Ba triệu tiếng vổ tay nổ ran, nhưng Felipe ngăn họ: "Xin im lặng !", anh nói. "Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần !"
Người thanh niên 23 tuổi yêu cầu mọi người hãy cầm lấy thập giá mà họ đang đeo ở trên cổ lên, và nhìn vào thánh giá đó. Anh xin mọi người suy ngẫm trong im lặng với những câu hỏi: "Thập giá mà Chúa đã ban cho tôi là gì ? Thập giá mà Ngài muốn tôi thực hiện cho tình yêu của Ngài là gì ?"
Tất cả mọi người, kể cả Đức Giáo Hoàng đã cầm thánh giá lên...
Câu chuyện thương tâm của người thanh niên trẻ đã tạo ra một thời khắc không bao giờ quên được cho 3 triệu người có mặt trong đêm canh thức trên bãi biển Copacabana. Anh cũng mời gọi chúng ta làm chứng cho Chúa bằng việc nhận ra và đón nhận thập giá đời mình, hầu có thể bước theo Chúa Kitô.
2. Câu truyện thứ hai:
Không phải xảy ra ở Brazil hay một nơi nào xa lạ, nhưng là câu truyện của chính chúng ta. Theo thông lệ hàng năm, cứ vào dịp mừng kính thánh Đaminh - bổn mạng giáo xứ, giáo xứ Đaminh - Ba Chuông tổ chức ngày hiến máu nhân đạo, như là hoạt động bác ái thiết thực mừng thánh thánh bổn mạng. Sáng Chúa nhật vừa qua, 28/07/2013, đã có tổng số 142 lượt người hiến máu, với 190 đơn vị máu. Máu là chính sự sống, là tặng vật cao quý nhất Thiên Chúa ban cho con người, và chính tặng vật này lại trở thành quà tặng con người trao hiến cho nhau. Rất cảm động khi có một em gái bị nhân viên y tế từ chối không cho hiến máu, vì em bị tụt huyết áp; thế nhưng em cố nài nỉ xin được hiến máu để sẻ chia chút gì đó là chính sự sống của mình. Chắc chắn nghĩa cử cao đẹp này của cộng đoàn là một lời chứng về lòng thương cảm sâu xa, cách nào đó chúng ta đang họa lại mẫu gương sống động của thánh Đaminh trong chính đời sống của mình.
Kết luận
Kính thưa cộng đoàn, để kết thúc những tâm tình chia sẻ này, chúng ta cùng xác tín với nhau 2 điểm cụ thể:
1. Lời nói xuông chỉ là cho người ta ăn "bánh vẽ", chỉ là trò "mị dân", khiến con người thời nay rất dị ứng. Xã hội chúng ta ngày nay đang bị mang tiếng là một xã hội vô cảm, chúng ta cần diễn tả đức tin bằng những việc làm cụ thể và thiết thực, nhất là những việc làm thể hiện lòng thương cảm đối với anh chị em của mình.
2. Ý thức ơn gọi và vai trò Kitô hữu của mình, chúng ta đừng quên rằng, chứng tá đời sống không chỉ là của các cá nhân mà còn phải là chứng tá của cả gia đình và cộng đoàn nữa. Dẫu biết rằng sống chứng tá nhiều khi chúng ta phải chấp nhận thua thiệt, mất mát, chấp nhận trở thành kẻ lội ngược dòng với tâm thức của con người thời đại. Xin Chúa thương sử dụng mỗi chúng ta như khí cụ bình an của Chúa. Amen./.
CHÍN CÁCH CẦU NGUYỆN
CỦA THÁNH ĐA MINH
= = =
Cuốn sách chín cách cầu nguyện của thánh Đaminh có lẽ được viết tại Bô-lô-nha trong khoảng thời gian từ năm 1260 đến 1288 do một tác giả vô danh.
Tác giả này đã nhận được nguồn tin từ chị Xêxilia, một nữ đan sĩ thuộc đan viện thánh A-nê (người đã lãnh tu phục từ tay thánh Đaminh) và những nhân vật khác đã có dịp tiếp xúc với vị thánh sáng lập Dòng. Tài liệu đáng quí này chứng tỏ sự thánh thiện trổi vượt của thánh Đaminh đồng thời ở một mức độ nào đó cho thấy cuộc sống kết hợp mật thiết với tình yêu Thiên Chúa của người.
Các bản thảo tiên khởi về cách cầu nguyện của thánh Đaminh có kèm theo những bức tiểu hoạ diễn tả nhiều tư thế người đã thể hiện trong khi cầu nguyện. Codex Rossianus 3 trong bản thảo bằng tiếng Tây-Ban-Nha tại thư viện Vatican do một hoạ sĩ thời danh dùng những màu rực rỡ để vẽ nên mà hiện nay bức hoạ vẫn giữ được vẻ đẹp ban đầu. Những bản phác hoạ bổ xung để hiện tại hoá những bức hoạ cổ là những phóng tác của tu sĩ Jerome Newell, O.P.
Chín cách cầu nguyện đôi khi được in kèm theo như phần bổ xung về cuộc đời của thánh Đaminh do Theodoric of Apoldia, tuy nhiên đó không phải là một phần của tác phẩm. Có thể sự kiện trên được xác định nhân dịp đến Bologna dự tổng hội năm 1288 của cha giám tỉnh tỉnh dòng Đức Conrad of Trebensee. Tại đây người đã tìm thấy tài liệu về chín cách cầu nguyện của thánh Đaminh cũng như những tài liệu khác có liên quan đến thánh nhân và người đã mang về Đức giao cho Theodoric nghiên cứu, chính trong thời gian này Theodoric đã khởi sự viết tiểu sử cha thánh Đaminh.
Các bậc thầy thánh thiện trong Giáo Hội như thánh Augustinô, Ambrosiô, Grêgoriô, Hilariô, Isidorô, Gioan kim khẩu, Gioan Damascenô, Bênađô và các thánh tiến sĩ thuộc nghi lễ Hy lạp cũng như La Tinh đã giảng giải rất chi tiết về các cầu nguyện. Các ngài đã khích lệ và diễn tả cách thức cầu nguyện cũng như chỉ ra sự cần thiết và giá trị của cầu nguyện, đồng thời giải thích những phương pháp và những chuẩn bị phải có, bên cạnh đó các ngài cũng cho thấy những trở ngại của mỗi cách thức cầu nguyện.
Trong những cuốn sách uyên bác của mình, vị tiến sĩ sáng giá và đạo đức, tu sĩ Tôma Aquinô và Anbêtô thuộc dòng Anh Em Thuyết Giáo, cũng như Willam trong khảo luận của người về các nhân đức đã đề cao cách thức cầu nguyện mà linh hồn nhờ các chi thể để tung hô, thờ lạy Thiên Chúa là cách thức cầu nguyện thánh thiện, sốt sắng và tuyệt đẹp. Nhờ cách thức cầu nguyện này, linh hồn ở trong sự rung động của thân thể và được rung động nhờ thân thể. Đôi khi thân xác đạt đến sự ngây ngất trong tình trạng xuất thần như trong trường hợp thánh Phaolô hoặc được cuốn hút trong tinh thần hoan hỷ như thánh vương Đa-vít. Thánh Đaminh đã từng sử dụng cách thức cầu nguyện này và thật hợp lý khi chúng ta bàn một khiá cạnh nào đó về phương pháp cầu nguyện của người.
Thực ra, trong cả Cựu Ước và Tân Ước có nhiều vị thánh nổi tiếng đôi khi đã cầu nguyện như vậy. Cách thức cầu nguyện này giúp khơi dậy lòng đạo đức nhờ tác động xen kẽ của linh hồn trên thân xác và của thân xác trên linh hồn. Cách cầu nguyện này hẳn khiến thánh Đaminh đã khóc sướt mướt cũng như khơi gợi sự tha thiết nên thánh nơi Ngài và với cảm xúc mạnh mẽ như thế làm cho thánh nhân không thể không diễn tả tâm tình thờ phượng bằng những hành vi cụ thể nơi các chi thể của Ngài. Như thế tâm tình cầu nguyện được cất lên thành những lời kêu cầu, khẩn nài và tạ ơn tha thiết.
Ngoài nhiều cách thức cầu nguyện đạo đức và truyền thống, thánh Đaminh dùng khi dâng thánh lễ và hát thánh vịnh, tiếp đến là những là những phương pháp cầu nguyện đặc biệt của người. Tại cung nguyện hoặc trên đường đi, khi thánh nhân thường bất ngờ được xuất thần chiêm ngưỡng Thiên Chúa và các thiên thần.
= = =Cách Cầu Nguyện Thứ Nhất
Cách cầu nguyện thứ nhất của thánh Đaminh là cúi mình trước bàn thờ như thể trước Đức Kitô với ý nghĩa bàn thờ không chỉ là biểu tượng mà là sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Người đã dùng những lời trong sách Giu-đi-tha để thưa với Thiên Chúa “Lạy Chúa là Thiên Chúa, lời cầu nguyện của người khiêm nhường và hiền lành luôn làm đẹp lòng Ngài” (Gđt 9,16 ?). Chính vì khiêm nhường mà người phụ nữ Ca-na-an và người con hoang đàng đã nhận được những gì họ muốn; phần con, “con chẳng đáng Ngài ngự vào nhà con” (Mt 8,8). “Lạy Chúa xin cho con biết hoàn toàn khiêm nhường trước tôn nhan Ngài” (Tv 118,107).
Trong cách thức cầu nguyện thứ nhất này, cha thánh Đaminh đứng thẳng, cúi đầu, khiêm tốn hướng về Đức Kitô là thủ lãnh của người và đối chiếu sự thấp hèn của mình trước sự cao cả của Đức Kitô. Thánh nhân đã bày tỏ lòng tôn kính đối với Người. Các anh em được dạy phải làm như vậy mỗi khi đi qua tượng Chúa Chịu Đóng Đinh để qua sự khiêm hạ tận cùng vì chúng ta của Đức Kitô, chúng ta có thể nhận ra thân phận tầm thường của mình trước sự uy nghi cao cả của Người. Cha thánh Đaminh còn truyền cho anh em thể hiện sự khiêm nhường theo cách thức này để tôn kính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi khi đọc kinh Vinh Tụng Ca “Vinh Danh Chúa Cha và Chúa Con cùng Vinh Danh Thánh Thần Thiên Chúa”. Thánh Đaminh bắt đầu cầu nguyện theo kiểu cúi đầu thật sâu như được chỉ trong bức hoạ./.
Cách Cầu Nguyện Thứ Hai
Thánh Đaminh thường cầu nguyện bằng cách nằm duỗi dài và úp mặt trên đất. Thánh nhân cảm thấy hối hận, liên tưởng đến và đôi khi thốt lên thành tiếng lời Tin Mừng, người khác có thể nghe được “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Với lòng thành kính và sốt sắng, Thánh Đaminh lặp lại những lời của vua Đa-vít “ Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con đã có lỗi” (2 Sm 24,17). Sau đó người đã khóc lóc, kêu than thảm thiết và nói “con không đáng chiêm ngắm những sự cao cả trên trời vì thân con mang đầy tội lỗi, con đã khơi lên sự giận dữ nơi Ngài và đã làm điều dữ trước tôn nhan Ngài. Từ Thánh vịnh: “……, người đã nói một cách tha thiết và thành kính những lời này: mạng chúng con bị chôn vùi trong cát bụi, tấm thân này nằm bẹp dưới bùn đen” (Tv 43, 25). Người lại nói tiếp: “tấm thân này bị nhận xuống bùn đen, theo lời Ngài xin cho con được sống” (Tv 118, 25).
Vì muốn cho anh em cầu nguyện sốt sắng, đôi khi người cũng nói với họ: “khi các nhà đạo sĩ thành tâm bước vào nhà, họ đã thấy Hài Nhi và đức Maria, mẹ của Người, họ đã sấp mình xuống thờ lạy Người. Không còn ngờ vực nữa, chúng ta cũng gặp Thiên Chúa làm Người và đức Maria nữ tỳ của Thiên Chúa. “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quì trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv 94, 6). Thánh Đaminh cũng động viên những người trẻ: nếu không thể khóc cho tội của riêng mình vì không có tội, thì em hãy nhớ rằng có nhiều tội nhân cần đến lòng thương xót và quảng đại. Đó là điều mà các Ngôn sứ than khóc cho họ và Đức Giêsu khi thấy họ, Người đã khóc thảm thiết. Thánh vương Đavít cũng đã khóc “Con nhìn quân phản phúc mà ghê tởm”.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Ba
Kết thúc cách cầu nguyện vừa được trình bày ở trên, thánh Đaminh chỗi dậy và dùng một roi sắt để đánh mình, đang khi nguyện: “Lạy Chúa, Ngài ban ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con, Ngài đưa tay uy quyền nâng đỡ, săn sóc ân cần giúp con lớn mạnh”, và nói “Luật Ngài sửa dạy con đến cùng” (Tv 17, 36).
Đây là lý do Dòng đã yêu cầu tất cả anh em giữ kỷ luật với que gỗ trên vai khi cúi xuống thờ lạy và đọc “Thánh vịnh Sám Hối” hoặc “Thánh vịnh Từ Vực Thẳm” sau Kinh Tối ngày thường để tưởng nhớ gương sáng của Thánh Phụ. Hình thức kỷ luật này được thực hiện để đền tội cho mình hoặc của những người mà mình đã sống nhờ bổng lộc của họ. Dù không có tội nhưng không ai được bỏ qua gương mẫu thánh thiện được minh hoạ nơi bức vẽ.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Tư
Thánh Đaminh ở lại trước bàn thờ hay phòng hội hoàn toàn chú tâm nhìn lên tượng Chuộc Tội. Thánh nhân đã đứng lên quì xuống liên tục không biết bao nhiêu lần. Đôi khi người tiếp tục từ sau Kinh Tối đến nữa đêm, lúc đứng, lúc quì như thánh Gia-cô-bê tông đồ hay như người phong cùi trong Tin Mừng, đã bái lạy Đức Giêsu và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch” (Mt 8, 2). Người cũng như thánh Stêphanô đã quì xuống và khóc lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7, 60). Vì thế đã thành hình nơi Thánh phụ Đaminh lòng tín thác lớn lao vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho chính mình, cho mọi tội nhân và phó thác sự trung thành của các anh em trẻ mà người đã sai đi rao giảng Tin Mừng. Đôi khi Thánh nhân không thể kìm hãm được tiếng của mình, có những anh em đã nghe thấy Thánh nhân thì thầm: “Lạy Chúa, là Thiên Chúa của con, con kêu lên Ngài, xin đừng nỡ giả điếc làm ngơ. Vì nếu Ngài cứ im hơi lặng tiếng thì con sẽ giống như kẻ đã xuống mồ” (Tv 27,1) và những lời tương tự như vậy trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, có những lúc, Thánh nhân đã nói một mình và người khác không thể nghe được. Thánh nhân vẫn quì lâu trong trạng thái ngây ngất và đang khi ở trong tư thế này, bất ngờ trên khuôn mặt Thánh nhân diễn tả tâm trạng thấu suốt trời cao đồng thời phản chiếu niềm vui tột độ khi người lau sạch những dòng nước mắt. Thánh nhân đang ở trong giai đoạn khao khát, mong đợi như người khát tìm được dòng nước và như lữ khách về đến quê nhà. Sau đó, Thánh nhân trở nên chăm chú và hăng hái hơn khi đứng, lúc quì như đi vào cách thức cầu nguyện khác với ân sủng tràn đầy. Người cũng quen quì trước Thiên Chúa theo cách thức này trong quán trọ sau khi đã trải qua một hành trình vất vả, hoặc dọc đường đi với các bạn đồng hành nghỉ ngơi hay đã ngủ. Thánh nhân thực hiện với những cử chỉ bái gối này như một hình thức cầu nguyện riêng tư và ấn tượng của mình. Thánh nhân cũng dạy các anh em cách thức cầu nguyện này bằng gương sáng hơn là bằng lời nói.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Năm
Tại tu viện, đôi khi cha thánh Đaminh ở lại trước bàn thờ đứng thẳng không tựa mình vào đâu. Người thường để tay trước ngực trong tư thế cuốn sách mở, Thánh nhân đứng rất nghiêm trang và cung kính như đang đứng trước sự hiện diện đích thực củaThiên Chúa. Đắm chìm trong cầu nguyện, Người đã xuất hiện đang khi suy gẫm Lời Chúa và dường như Thánh nhân lặp lại lời đó cho chính mình với một giọng ngọt ngào.
Thánh Đaminh thường cầu nguyện bằng cách thức này vì đó là cách cầu nguyện của Đức Giêsu như thánh Lu-ca đã kể lại cho chúng ta: “…Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc sách” (Lc 4, 16). Tác giả Thánh Vịnh cũng nói với chúng ta rằng: “Pin-khát liền đứng ra phân xử, tai hoạ bỗng dứt ngay” (Tv 105, 30).
Đôi khi thánh Đaminh chắp tay lại, đan chặt các ngón tay với nhau trong khi đôi mắt đã đẫm lệ và tự kìm hãm không để trào ra. Lúc khác Thánh nhân lại giơ tay ngang vai như một linh mục đang cử hành thánh lễ. Sau đó Thánh nhân có vẻ như đang chăm chú lắng nghe điều gì đó được nói từ bàn thờ. Nếu có ai đó đã nhìn thấy thái độ hết sức cung kính của Thánh nhân khi người đứng thẳng và cầu nguyện, chắc hẳn người đó nghĩ rằng mình đang chiêm ngắm một vị ngôn sứ, trước tiên đang đối thoại với một thiên sứ hoặc với chính Thiên Chúa, Thứ đến là đang lắng nghe sau đó là thinh lặng suy nghĩ về những điều đã được mặc khải.
Trên đường đi, thánh Đaminh thường bí mật giành giờ cho việc cầu nguyện, đứng lại và ngay lập tức hướng lòng trí về trời. Người ta đã nghe thấy Thánh nhân nói những lời yêu thương hoan lạc phát xuất từ tâm hồn và từ sự phong phú của Kinh Thánh mà dường như người đã rút từ nguồn mạch của Đấng Cứu Thế. Các anh em được lay động rất nhiều nhờ chứng kiến người Cha và cũng là bậc thầy cầu nguyện của mình. Do đó anh em càng trở nên sốt sắng hơn nhờ được chỉ dạy cách thức cầu nguyện thành kính và kiên trì này: “Quả thực như mắt của giai nhân hướng nhìn tay ông chủ, mắt của nữ tì hướng nhìn tay bà chủ…”.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Sáu
Người ta còn chúng kiến cha thánh Đaminh đứng thẳng giang tay như hình thánh giá cầu nguyện một cách trang trọng. Chị Cecilia, một nữ đan sĩ thánh thiện và tốt lành, chị đã cùng với nhiều người khác đã tiếp xúc với thánh Đaminh kể lại rằng, thánh nhân đã dùng cách cầu nguyện này khi Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Người đã làm cho cậu Na-pô-lê-ông sống lại tại phòng thánh nhà thờ thánh Sixtus ở Rô-ma và khi người chỗi dạy từ mặt đất để dâng thánh lễ. Cha Đaminh giống như ngôn sứ Ê-li-a, người đã giơ tay và đặt trên con trai một quả phụ khi cầu xin cho em được sống lại.
Thánh Đaminh đã cầu nguyện một cách tương tự như vậy gần Toulouse sau khi đã cứu thoát đoàn hành hương người Anh khỏi nguy hiểm trên sông. Đức Giêsu, Chúa chúng ta cầu nguyện như vậy đang khi Người bị treo trên thập giá với đôi tay mở rộng và như trong thư gởi tín hữu Do Thái có viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc… và Người đã được nhận lời vì có lòng tôn kính” (Dt 5, 7).
Thánh Đaminh không dùng cách cầu nguyện này trừ khi được Thiên Chúa soi sáng cho biết một điều gì đó vĩ đại và phi thường sắp xảy đến nhờ sức mạnh lời cầu nguyện của Người. Mặc dù không cấm cản nhưng Thánh nhân không khuyến khích anh em cầu nguyện theo cách thức này. Chúng ta không biết người đã nói gì khi đứng giang tay cầu nguyện và khi cậu Na-pô-lê-ông sống lại. Có lẽ đó là những lời của ngôn sứ Ê-li-a: “Lạy Đức Chúa,Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này trở về với nó” (1 V 17, 21). Chắc hẳn cha thánh đã tuân theo cách thức bên ngoài của ngôn sứ Ê-li-a trong những lần phải dùng đến cách cầu nguyện này. Tuy nhiên, các anh chị em cũng như các nhà quí tộc, các hồng y và tất cả những người có mặt, đã quá bị thu hút bởi cách cầu nguyện hết sức phi thường và lạ lùng nên đã không nhớ được những lời người nói. Sau đó họ cũng không dám hỏi cha thánh về những sự kiện này bởi vì qua phép lạ, con người thánh thiện và đặc biệt này đã ghi khắc trong họ một tâm trạng trân trọng và tôn kính thật lớn lao.
Với một thái độ trang nghiêm và thành kính, thánh Đaminh đã đọc chậm những lời Thánh Vịnh, được kể như cách thức cầu nguyện này. Người thường đọc một cách chăm chú: “Lạy Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, trước thánh nhan đêm ngày con kêu cứu”. Người tiếp tục đọc cho đến câu: “Lạy Chúa suốt cả ngày con kêu lên Chúa và giơ tay hướng thẳng về ngài” (Tv 87,2-10).
Sau đó, cha thánh đọc thêm: “Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, lắng nghe con nài van bởi Ngài thành tín...”. Kế đó, thánh nhân lại tiếp tục cầu nguyện bằng những lời này: “hai tay cầu Chúa giơ lên... xin nghe con lạy Chúa” (Tv 1142, 1-7).
Vì vậy, gương mẫu cầu nguyện của cha thánh, chắc hẳn sẽ giúp cho các tâm hồn sớm nhận ra sự nhiệt thành và sốt sắng của người khi cầu nguyện. Quả vậy khi cầu nguyện như thế thánh Đaminh ước ao khơi gợi lòng thương cảm phi thường nào đó nơi Thiên Chúa hoặc khi Thánh nhân cảm thấy qua sự thúc bách nội tâm, Thiên Chúa muốn mời gọi Thánh nhân tìm kiếm đặc sủng nào đó cho chính mình hay cho những người xung quanh.
Kế đó, với lòng sùng kính sâu thẳm, người chiếu toả sự khôn ngoan thiêng liêng của vua Đa-vít, sự nhiệt thành của ngôn sứ Ê-li-a, lòng khoan dung của Đức Kitô như được minh hoạ trong hình vẽ.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Bẩy
Người ta cũng thường chứng kiến, đang khi cầu nguyện thánh Đaminh giơ tay hướng về trời như mũi tên được bắn thẳng vào bầu trời từ một cây cung căng. Thánh nhân đứng chắp tay giơ cao trên đầu, đôi khi người nhẹ nhàng tách ra một như sắp đón nhận một điều gì đó từ trời. Người ta tin rằng thánh Đaminh đang lãnh nhận nguồn ân sủng và trong trạng thái xuất thần người cầu xin Thiên Chúa ban những ân huệ Thánh Thần cho hội dòng người đã sáng lập.
Dường như thánh Đaminh tìm kiếm cho chính mình và cho các anh em chút ít niềm vui thiêng liêng cảm nghiệm từ việc sống tinh thần Tám Mối Phúc, khi cầu nguyện như thế mỗi người sẽ thực sự cảm thấy được chúc phúc trong nghèo khó, khóc lóc, bách hại, đói khát sự công chính và thương xót mọi người. Thánh Đaminh cầu nguyện cho con cái người cảm nhận được niềm vui trong việc tuân giữ các điều răn và sống trọn vẹn những lời khuyên Phúc Âm. Sau đó đầy hoan lạc, cha Đaminh xuất hiện để tiến vào nơi cực thánh và Tầng Trời Thứ Ba. Sau cách thức cầu nguyện này dường như Thánh nhân trở thành một vị ngôn sứ trong việc khiển trách những sai xót và hướng dẫn người khác hoặc trong giảng thuyết.
Cha thánh không ở lại trong cách cầu nguyện này lâu giờ nhưng người đã dần dần thu lại tràn đầy năng lực của mình. Lúc này thánh Đaminh được xem như một người đến từ nơi rất xa hay như người ngoài hành tinh, điều này dễ dàng nhận thấy nơi vẻ mặt và bộ dạng của người. Kế đó chắc hẳn anh em nghe người cầu nguyện lớn tiếng và nói như một ngôn sứ: “Khi con hướng về nơi cực thánh, giơ đôi tay cầu cứu van nài, xin Ngài nghe tiếng con khấn nguyện” (Tv 27, 2).
Qua những lời và gương mẫu thánh thiện của mình, thánh Đaminh luôn luôn dạy cho các tu sĩ theo cách này, thường xuyên lặp lại những lời Thánh Vịnh: “Hỡi những người tôi Chúa ứng trực suốt đêm trong thánh điện, nào chúc tụng Chúa đi ! Hãy giơ tay hướng về cung thánh mà dâng lên lời chúc tụng Người…” (Tv 113,1-3). “Lạy Chúa con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài mau đến phù trợ con. Xin lắng nghe lời con khi con kêu lên Ngài. Ước chi lời con nguyện bay toả trước tôn nhan và tay con giơ lên được chấp nhận như của lễ ban chiều” (Tv 140, 1-2). Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cách cầu nguyện này của cha thánh qua bức hoạ.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Tám
Cha thánh Đaminh còn có một cách cầu nguyện khác vừa đẹp, vừa nghiêm trang và dễ chịu mà người thường thực hiện sau các giờ kinh nguyện cũng như tạ ơn sau các bữa ăn. Khi đó Thánh nhân sốt sắng và đầy lòng tôn kính mà người đã rút tiả từ lời Chúa được hát trong cung nguyện hay trong nhà ăn.
Cha Đaminh nhanh chóng rút vài nơi vắng vẻ nào đó, phòng riêng hay nơi khác và hồi tâm trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Người cầu nguyện trước hình thánh giá và đọc cuốn sách đã được mở sẵn trước mặt. Sau đó, tâm hồn của người được lay động ngọt ngào như thể nghe được tiếng Chúa đang nói mà chúng ta đã đọc thấy trong Kinh Thánh: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Thiên Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người” (Tv 84, 9).
Trước tiên người tỏ ra thiếu kiên nhẫn trong tư tưởng và lời nói như đang tranh luận với một người bạn. Ngay sau đó, người trở nên im lặng lắng nghe, rồi ra như thảo luận và tranh cãi. Dường như cùng một lúc người vừa khóc vừa cười, sau đó lại ân cần, ngoan ngoãn thầm thĩ đấm ngực.
Nếu một người hiếu kỳ nào đó ao ước được nhìn thấy thánh Đaminh lúc này, hẳn người đó sẽ nhận thấy người giống như ông Mô-sê khi đi vào sa mạc, lên núi thánh Horeb của Thiên Chúa, và ở đó ông đã chứng kiến bụi gai đang cháy và nghe tiếng Đức Chúa vì ông đã phủ phục trước sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng, hình thức cầu nguyện này của cha thánh được ví như vị ngôn sứ tiến lên núi thánh của Thiên Chúa vì Thánh nhân đã nhanh chóng chuyển từ việc đọc sách sang cầu nguyện, đến suy niệm và rồi đi vào trong chiêm niệm.
Khi đọc sách một mình theo cách thức riêng này, thánh Đaminh rất trân trọng cuốn sách, thái độ đó thể hiện qua việc người cúi chào và hôn sách. Cung cách này được thể hiện một cách đặc biệt đối với sách Tin Mừng, và khi đọc đến những lời của Đức Kitô.
Lúc khác, thánh Đaminh ẩn mặt đi và lấy áo choàng phủ lên, hoặc giấu mặt trong hai bàn tay, rồi lấy mũ đậy lại một cách sơ sài. Kế đó người khóc với tất cả lòng tha thiết và đầy những ước muốn thánh thiện. Tiếp đó Thánh nhân đứng lên và cúi đầu một lát như thể tạ ơn một người tốt bụng nào đó vì những ơn đã lãnh nhận. Khi đã hoàn toàn tươi tỉnh, Thánh nhân trở lại với cuốn sách của mình trong sự bình an nội tâm vô tận.
= = =
Cách Cầu Nguyện Thứ Chín
Cha thánh Đaminh đã cử hành cách cầu nguyện này đang khi trên đường đi du thuyết từ miền này đến miền khác, đặc biệt khi Thánh nhân đi qua một vùng hoang vắng nào đó. Sau đó người hân hoan đưa mình hoàn toàn vào trong suy niệm, rồi sang chiêm niệm và lúc này người đã nói với những người đồng hành lời được viết trong sách ngôn sứ Hô-sê: “Ta sẽ đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2, 14). Tách khỏi đoàn đi, thánh Đaminh đi lên phía trước hoặc thường xuyên hơn người đi sau một quãng, vừa đi vừa cầu nguyện, trong suy niệm Thánh nhân được hâm nóng tâm hồn và ngọn lửa nhân ái nơi người được đốt lên. Đang khi cầu nguyện, người đã tự làm cho mình thêm vững mạnh bằng cách làm dấu Thánh giá liên tục như thể có bụi hay côn trùng đang bay trước mặt.
Anh em nghĩ rằng trong khi cầu nguyện theo cách thức này cha thánh thấm nhuần Kinh Thánh và hiểu thấu đáo Lời Chúa, đó là sức mạnh để người nhiệt thành và can đảm giảng thuyết, đồng thời cách cầu nguyện này giúp Thánh nhân thấu hiểu tường tận về Chúa Thánh Thần, nhờ đó người khám phá được những điều bí ẩn nơi Thiên Chúa.
Lm Giuse Phan Tấn Thành, OP
nguồn: daminhvn.net
Thánh Đaminh và Kinh Mân Côi
= = =
Tác giả: Thánh Louis Marie Grignion de Montfort
Việc sùng kính Kinh Mân Côi được thiết lập một cách lạ lùng, cũng giống như cách thức mà Thiên Chúa Toàn Năng đã thực hiện ở núi Sinai, khi ban lề luật của Ngài cho thế gian, đã rõ ràng chứng tỏ giá trị và tầm mức quan trọng của Kinh Mân Côi.
Được cảm hứng bởi Thánh Linh và được hướng dẫn bởi Mẹ Đồng Trinh, cộng với kinh nghiệm bản thân, thánh Đa Minh đã rao giảng Kinh Mân Côi cho đến hơi thở cuối cùng của ngài.
Ngài rao giảng Kinh Mân Côi bằng gương sáng cũng như bằng lời giảng, trong các phố xá cũng như ở các thôn làng, cho cả kẻ sang cũng như người hèn, trước các học giả và cả thành phần thất học, cho người Công giáo lẫn người lạc đạo.
Kinh Mân Côi mà thánh nhân lần hằng ngày là để dọn từng bài giảng một, và cũng là để nghỉ ngơi tâm sự với Đức Mẹ ngay sau bài giảng. Một ngày kia, thánh nhân Đaminh phải giảng ở nhà thờ Đức Bà Balê, và ngày đó lại là ngày lễ thánh Gioan Tông Đồ. Ngài đang cầu Kinh Mân Côi để dọn bài giảng, ở đằng sau bàn thờ trong nhà nguyện nhỏ, theo thói quen của mình, thì Đức Mẹ hiện ra với ngài mà nói: “Đa Minh con, mặc dù điều con đang định giảng rất hay, song Mẹ mang đến cho con một bài giảng còn hay hơn nữa kìa.”
Thánh Đa Minh đưa hai tay nhận cuốn sách mà Đức Mẹ muốn trao cho ngài, cẩn thận đọc bài giảng, và sau khi hiểu được bài giảng, ngài suy niệm bài giảng, rồi cám ơn Đức Mẹ.
Đến giờ, thánh nhân lên toà giảng, và, mặc dù hôm đó là ngày lễ thánh Gioan, Ngài không hề đề cập đến thánh Gioan, mà lại nói rằng thánh Gioan đã xứng đáng được chọn để làm hộ vệ cho Nữ Vương Thiên Quốc. Cử tọa bấy giờ toàn là các thần học gia và thành phần nổi tiếng thường có thói quen nghe những bài diễn văn ngoại hạng và sâu sắc; nhưng thánh Đa Minh lại bảo họ rằng Ngài không muốn giảng cho họ một bài giảng cao sâu, thâm thúy theo thế gian, song ngài sẽ giảng theo sự đơn thành như Chúa Thánh Linh soi sáng.
Thế là thánh nhân bắt đầu giảng về Kinh Mân Côi và cắt nghĩa từng chữ Kinh Kính Mừng như thể giảng dạy cho một đám trẻ con, và dùng những thí dụ rất đơn sơ được chứa đựng trong cuốn sách mà Đức Mẹ đã trao cho ngài.
Carthagena, một đại học giả, khi trích lại lời của chân phước Alan de la Roche trong cuốn “De Dignitate Psalterii”, đã trình thuật lại sự việc này như sau: “Chân phước Alan viết rằng một hôm thánh Đa Minh nói với ngài trong một thị kiến: 'Hỡi con, giảng dạy thì tốt; nhưng nguy hiểm ở việc luôn tìm kiếm lời khen tặng hơn là phần rỗi các linh hồn. Hãy nghe cho kỹ điều đã xẩy ra cho cha ở Ba-lê để con có thể đề phòng sự lầm lẫn này. Bấy giờ cha đang giảng ở trong một đại thánh đường được cung hiến cho Thánh Nữ Maria, và cha háo hức đặc biệt muốn giảng một bài giảng nẩy lửa, không hẳn là vì kiêu hãnh, cho bằng là vì cử tọa toàn là thành phần đại trí thức’”
“Trước khi giảng một tiếng, cha thinh lặng để đọc Kinh Mân Côi, như cha luôn có thói quen như vậy trước khi giảng, rồi ngất trí đi. Cha thấy Mẹ Thiên Chúa dấu yêu của cha tiến đến với cha, trên tay cầm một quyển sách. Mẹ nói: 'Đa Minh, bài giảng của con hôm nay thực sự rất hay, nhưng dù nó có hay mấy đi nữa, Mẹ cũng mang đến cho con một bài giảng còn hay hơn nữa kìa'.”
“Dĩ nhiên là cha hết sức vui mừng, nhận lấy cuốn sách và đọc từng chữ một. Đúng y như Đức Mẹ nói, cha đã thấy được đúng những điều cần phải giảng, và cha hết lòng cám ơn Đức Mẹ.”
“Đến giờ khai mạc, cha thấy cả một lực lượng hùng hậu của đại học Ba-Lê cùng với một số đông tai to mặt lớn. Tất cả đã từng chứng kiến và nghe thấy những điều cao cả mà Chúa Nhân Lành đã làm qua cha. Thế là cha lên toà giảng.”
“Hôm đó là ngày lễ thánh Gioan Tông Đồ, nhưng tất cả những gì cha nói về Ngài là Ngài xứng đáng được chọn làm vị hộ vệ của Nữ Vương Thiên Quốc. Bấy giờ, cha ngỏ lời với cử tọa rằng: ‘Quí vị lãnh đạo và quí vị tiến sĩ đại học thân mến, quí vị thường có thói quen nghe những bài giảng uyên thâm mới thích hợp với mức độ thưởng thức của quí vị. Giờ đây, tôi lại không muốn nói với quí vị bằng ngôn ngữ thức giả theo tầm mức khôn ngoan của loài người, mà, ngược lại, tôi muốn chứng tỏ cho quí vị thấy Thần Linh của Thiên Chúa và sự cao cả của Ngài.’”
Hết phần trích dẫn theo chân phước Alan trên đây, Carthagena tiếp tục góp ý của mình: “Bấy giờ thánh Đa Minh cắt nghĩa Lời chào của Thiên Thần cho họ nghe, bằng những so sánh và ví dụ thực tiễn trong đời sống thường nhật.”
Theo Carthagena, chân phước Alan có đề cập đến một vài lần khác Chúa và Đức Mẹ hiện ra với thánh Đa Minh thúc giục và phấn khích Ngài rao giảng Kinh Mân Côi hơn nữa, để tẩy trừ tội lỗi và hối cải các tội nhân cũng như các người lạc đạo.
Ở một đoạn khác, Carthagena viết: “Chân phước Alan nói rằng Đức Mẹ đã tỏ cho Ngài là sau khi Người hiện ra với thánh Đa Minh, Con Chí Thánh của Người cũng hiện ra với thánh nhân mà phán: 'Hỡi Đa Minh, Ta vui mừng thấy con không cậy dựa vào sự khôn ngoan bản thân hay tìm kiếm những lời khen tặng hão huyền của loài người, mà là nhắm vào phần rỗi của các linh hồn bằng một đức khiêm nhượng cao cả.’”
“Thế nhưng, có nhiều vị linh mục lại muốn giảng gắt gao về những tội lỗi ghê gớm nhất ngay khi chúng vừa chớm phát, đã không ý thức được rằng, trước khi người bệnh được cắt thuốc đắng cho uống họ cần phải dọn lòng trí cẩn thận mới có lợi cho họ.”
“Đó là lý do tại sao trước khi làm bất cứ điều gì, các linh mục phải cố gắng gợi lên trong con người ta một lòng yêu cầu nguyện, đặc biệt là lòng yêu Thánh Vịnh Thiên Thần của Ta. một khi người ta bắt đầu và bền lòng đọc lời kinh này, Thiên Chúa sẽ khó lòng mà từ chối ban ơn cho họ theo lòng nhân từ của Ngài. Do đó, Ta muốn con rao giảng về Kinh Mân Côi.”
Ở một chỗ khác, chân phước Alan viết: “Các linh mục thường đọc một kinh Kính Mừng với giáo hữu trước khi giảng để xin ơn Chúa. Các ngài làm như vậy là vì Đức Mẹ đã dạy thánh Đa Minh điều đó. 'Hỡi con, có một lần Mẹ nói với thánh nhân, đừng ngạc nhiên khi thấy bài giảng của con không mang lại kết quả như con mong muốn. Con đang cầy sới một mảnh đất bị hạn hán.
Khi Thiên Chúa định canh tân mặt đất, Ngài bắt đầu bằng việc làm mưa xuống từ trời, và đó là tượng trưng cho Lời của Thiên Thần chào Mẹ. Thiên Chúa đã tái tạo thế giới là như vậy.”
“Do đó, khi giảng, con hãy thúc giục người ta đọc Kinh Mân Côi của Mẹ, và dùng cách này, lời giảng sẽ mang lại lợi ích cho các linh hồn.”
“Thánh Đa Minh nghe lời Đức Mẹ liền, và từ bấy giờ, các bài giảng của Ngài có một tác động cả thể.” Câu trích dẫn cuối cùng này được trích ra từ cuốn “Sách Về Phép Lạ của Kinh Mân Côi” (bằng tiếng Ý) và cũng được thấy ở trong các bản văn của Justin.
Tôi rất hân hạnh trích dẫn từ các tác giả danh tiếng này từng câu, từng chữ một bằng tiếng Latinh, vì lợi ích cho quí linh mục hay cho các bậc học giả, nếu quí vị còn ngờ vực về quyền lực thần diệu của Kinh Mân Côi. Chừng nào quí linh mục theo gương thánh Đa Minh rao giảng lòng sùng kính Kinh Mân Côi, bấy lâu lòng đạo hạnh và nhiệt thành còn tiến triển khắp nơi trên thế giới Kitô giáo và trong các dòng tu tôn sùng Kinh Mân Côi của các Ngài. Tuy nhiên, vì người ta bỏ bê không màng tới tặng vật trời ban cho này mà tất cả mọi giống tội và hư đốn đã lan tràn ngập lụt.
* (Trích từ Bí Mật Kinh Mân Côi - Bông Hồng 3 - Thánh Đa Minh, bản dịch tiếng Việt của Đa Minh Maria Cao Tấn Tĩnh, BLV)
http://gxdaminh.net/
THÁNH ĐAMINH, BA PHÉP LẠ CẢI TỬ HOÀN SINH
= = =
Phép lạ: Cải tử hoàn sinh một em bé & sách không bị cháy
Khuynh hướng Giáo hội gần đây khi cổ võ lòng tôn kính các thánh, thường nhấn mạnh việc noi gương đời sống nhân đức của các ngài. Điều đó chính xác, tuy nhiên đừng quên, các thánh luôn là những đấng chuyển cầu thần thế cho chúng ta trước nhan Thiên Chúa.
Các vị thánh như thánh Đaminh, Vincentê, Martinô … nên thánh do đời sống thánh thiện của các ngài chứ không phải nhờ phép lạ, nhưng các phép lạ là dấu hiệu để ta nhận ra tình yêu của các ngài với Chúa lớn lao như thế nào. Và Hội thánh vẫn dựa vào phép lạ, khi suy tôn các vị trên bàn thờ.
Thánh Đaminh lúc sinh thời, đã được Chúa ban nhiều dấu lạ, như : Cuốn sách không cháy trong cuộc tranh luận với lạc giáo; Khả năng nói tiếng Đức để giảng cho khách hành hương; Cứu sống đoàn tàu hành hương Compostella thoát cơn bão tố; Các phép lạ chữa bệnh; Thiên thần đem bánh cho tu viện khi thày đi hành khất vì bác ái đã phân phát hết cho người nghèo
Trong bài này xin giới thiệu ba phép lạ đặc biệt, phép lạ cải tử hoàn sinh, cho người đã chết được sống lại. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Đaminh, Chúa đã thực hiện việc cải tử hoàn sinh một kiến trúc sư, một em bé và cháu của hồng y Têphanô.
Độc giả có thể đọc thêm về nhiều phép lạ khác của thánh nhân trong tác phẩm “Thánh phụ Đaminh, Đấng sáng lập dòng thuyết giáo”, của cha Giuse Nguyễn Tri Ân, op (1).
1. Cải tử hoàn sinh một kiến trúc sư
Một kiến trúc sư được mời đến giúp sửa chữa nhà cửa tại tu viện Sixto. Một hôm, khi cha Đa Minh đi vắng, các thầy dẫn ông lên coi một tháp cao chót vót đã cũ cần được sửa lại. Chẳng may tháp lâu ngày đã mục đổ xuống vùi ông dưới đống đá chết ngay tại chỗ. Cả nhà dòng và dân chúng tuốn đến coi tai nạn mới xảy ra và bàn tán xôn xao.
Cha Đa Minh đi giảng về, nghe biết tin, người bình tĩnh tiến thẳng đến chỗ tai nạn xảy ra, và yêu cầu các thầy bới đống gạch đá để lấy xác ra ngoài. Sau đó, người quì xuống cầu nguyện với Chúa.
Khi cha Đa Minh vừa cầu nguyện xong, toàn thể dân chúng đứng chung quanh đều chứng kiến nạn nhân được sống lại với thân thể lành mạnh như không có việc chi xảy ra. Tiếng phép lạ đồn thổi khắp thành Rôma.
2. Cải tử hoàn sinh một em bé
Đó cũng là nội dung bức tranh được giáo xứ Đaminh trưng bày tại gian cung thánh năm nay, theo chủ đề "Thánh Đaminh, con người của lòng trắc sẩn". Bức tranh do họa sĩ Vlaho Bukovac người Praha Tiệp Khắc vẽ năm 1911, và được tôn kính tại nhà thờ thánh Đaminh tại Dubrovnik.
Một góa phụ tên là Tuta, có đứa con bị bệnh nặng. Nhưng quyết định đến nhà thờ thánh Maccô tại Rôma để nghe Cha Đaminh giảng thuyết. Khi về nhà bà phát hiện ra con trai của bà mới chết.
Bà mang đứa bé đến nhà thờ và thấy thánh Đaminh đứng ngay ở cửa như đang chờ ai đó. Bà liền đặt đứa bé dưới chân thánh nhân và xin ngài cứu sống con mình. Thánh Đaminh đến trước bàn thờ cầu nguyện một lát, rồi đến gần hai mẹ con, làm dấu Thánh giá ban phúc lành và đặt tay ... Bỗng nhiên đứa trẻ được hồi sinh.
Phép lạ này được ĐTC Honorio III công nhận, khiến ảnh hưởng của cha Đa Minh tăng lên gấp bội; thiên hạ tuốn đến với Người rất đông, họ chen nhau đụng chạm đến áo người mặc. Có người còn lén cắt trộm gấu áo của người để làm kỷ niệm di tích của một đấng thánh.
3. Cải từ hoàn sinh Napoleô, cháu hồng y Têphanô
Phục sinh Napoleo : “St Dominic Reuscitates”
Một hôm cha Đa Minh đang cùng thảo luận với hồng y Têphanô và hai vị hồng y khác. Bỗng có người đến báo hung tín, Napolene Orsini, cháu gọi hồng y Têphanô bằng cậu vừa ngã ngựa và chết ngay tại chỗ. Nghe tin, hồng y Têphanô bàng hoàng ngất xỉu.
Cha Đa Minh đích thân chạy đến chỗ Napoleô nằm chết yêu cầu đem xác nạn nhân về nhà. Rồi người sốt sáng dâng thánh lễ cầu nguyện cho cậu. Sau đó ngài đi vào phòng để xác cậu, lấy tay xếp đặt lại các phần thân thể đã gãy, quì xuống cầu nguyện ba lần, làm dấu thánh giá trên thi hài cậu.
Rồi ngài lớn tiếng truyền lệnh : “Napoleô, nhân danh Chúa Giêsu, con hãy chỗi dậy ngay”. Người vừa dứt lời thì Napoleô đã hồi sinh, bằng yên vô sự, chân tay lành lặn như không có biến cố đáng tiếc đã xảy ra. Cha Đa Minh cầm tay Napoleô trao lại cho đức hồng y.
Lm Px Đào Trung Hiệu OP.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét